Phạm Đình Trọng – Linh Nghiệm của cuộc đời (phần 1)
Th4 3, 2023
1. Một mình một cuộc cách mạng
Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm những năm 1955 – 1956 không phải chỉ là những bài viết đòi tự do dân chủ trên báo Nhân Văn, trên tạp chí Giai Phẩm do nhà văn hoá Nguyễn Hữu Đang tổ chức thực hiện, không chỉ là tiếng nói của những nhà văn, nhạc sĩ mặc áo lính Trần Dần, Tử Phác… từ rừng Việt Bắc về phố Lý Nam Đế, Hà Nội đòi những người làm công việc sáng tạo khoa học, nghệ thuật phải được tự do sáng tạo, thoát li khỏi con người công cụ cúc cung sáng tác theo nhiệm vụ chính trị. Nhân Văn – Giai Phẩm còn là những phát hiện của nhà triết học, nhà tư tưởng tầm vóc thế giới Trần Đức Thảo về những sai trái, tội lỗi, phản con người, phản khoa học của học thuyết Karl Marx, của chủ nghĩa cộng sản, là tiếng nói của những trí thức Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Tường… chỉ ra những hạn chế có tính bản chất, có tính lịch sử của đảng cộng sản, đảng của giai cấp cần lao và khẳng định đưa đất nước phát triển giầu mạnh không thể thiếu vai trò dẫn dắt của đội ngũ trí thức đích thực. Nhân Văn – Giai Phẩm là tiếng nói đầu tiên của người dân Việt Nam trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự độc quyền nhà nước, phủ nhận chuyên chính vô sản của đảng cộng sản.
Hơn ba mươi năm sau, truyện ngắn Linh nghiệm của Trần Huy Quang đăng trên báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, đúng ngày độc lập của nước Mỹ tự do, dân chủ, ngày 4.7.1992 là tiếng nói thứ hai chỉ ra chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng, không có thật, chủ nghĩa cộng sản chỉ là điều hoang tưởng để nói rằng đảng cộng sản kiên trì chủ nghĩa Marx, kiên trì lí tưởng cộng sản chỉ là kiên trì cái hoang tưởng, không có thật. Tiếng nói Nhân Văn – Giai Phẩm nghiêm trang và thẳng thắn là tiếng nói của lí trí khoa học. Linh nghiệm nhẹ nhàng, vui vẻ, bỡn cợt là tiếng nói của nghệ thuật.
Học thuyết chính trị, lí tưởng xã hội của đảng chính trị cầm quyền xác định hướng đi, xác định đích đến của một nhà nước, là bản chất, cốt lõi của một thể chế. Biến động xã hội làm thay đổi học thuyết chính trị, chuyển đổi lí tưởng xã hội là cuộc cách mạng. Nhân Văn – Giai Phẩm đòi thay đổi đường lối của đảng cầm quyền, đòi xoá bỏ sự độc quyền nhà nước của đảng cộng sản đương quyền, đó thực sự là cuộc cách mạng. Nhân Văn – Giai Phẩm không chỉ là một phong trào như từ trước đến nay vẫn nhìn nhận mà thực sự là cuộc cách mạng bất thành của đội ngũ trí thức, nghệ sĩ ưu tú nhất của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam.
Với tư cách nhà văn, bằng truyện ngắn Linh nghiệm chỉ hơn hai ngàn từ, hơn một trang báo khổ nhỏ 26 X 42 cm, một mình Trần Huy Quang dõng dạc lên tiếng chỉ ra lí tưởng cộng sản và chủ nghĩa xã hội chỉ là trò lẩm cẩm, là thứ ảo tưởng của kẻ lang thang, lạc loài, tứ cố vô thân.
Với Linh Nghiệm, một mình Trần Huy Quang cũng làm một cuộc cách mạng.
Dù bất thành, cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học bị dìm trong máu nhưng Nguyễn Thái Học mãi mãi lẫm liệt trong lịch sử Việt Nam. Nhân Văn – Giai Phẩm và Linh nghiệm cũng mãi mãi là trang vàng son trong lịch sử văn học Việt Nam. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần… và Trần Huy Quang – Linh nghiệm mãi mãi lừng lững khí phách Nguyễn Thái Học trong văn hoá Việt Nam.
Những nghị quyết, những quyết định, những bài viết hèn hạ và độc ác vu khống Nhân Văn – Giai Phẩm, vu khống Linh nghiệm lại như chiếc máy chém, chém đầu Nguyễn Thái Học còn mãi trong bảo tàng lịch sử là bằng chứng ô nhục của tội ác chống lại con người, chống lại chân lí, chống lại sự trung thực, chống lại ánh sáng trí tuệ để duy trì sự giả dối và tăm tối.
2. Lao xao vòm lá sưa
Nhân Văn – Giai Phẩm bị đàn áp. Những người đầu vụ bị cách li với xã hội theo hai cách. Người bị tống lên vách núi đá khắc nghiệt ở độ cao trên một ngàn mét, vào địa ngục trần gian, giam cầm trong hầm đá Cổng Trời, Hà Giang như Nguyễn Hữu Đang. Người bị treo bút và cầm tù vô thời hạn tại nhà, bị khủng bố, xách nhiễu tinh thần, bị bao vây, phong toả đời sống vật chất, phải sống lay lắt, đói khổ, cô đơn như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần… Những người dính dáng gần xa, chỉ là dây mơ rễ má với Nhân Văn – Giai Phẩm cũng bị những cú đòn âm thầm làm cho tan tác, mỗi người trôi dạt về một xó xỉnh tỉnh lẻ. Người bị loại ra khỏi biên chế cơ quan. Người bị loại ra khỏi vị trí đang đảm nhiệm, không được đảm nhận những vị trí có chức danh hành chính. Chỉ được làm những việc sự vụ, lao công. Thân thể chưa bị giam cầm nhưng tên tuổi thì bị giam cầm, bị cách li với xã hội, không được xuất hiện trong đời sống văn hoá.
Dù dính dáng đến Nhân Văn – Giai Phẩm hay không nhưng hoạn nạn Nhân Văn – Giai Phẩm đã gắn kết những nhà văn, nhà thơ cùng vào đời từ cuộc kháng chiến chống Pháp còn bên ngoài nhà tù đến với nhau như những người cùng một nỗi đau, cùng một mất mát, cùng một nỗi bơ vơ, ngơ ngác, hình thành những nhóm bạn văn thân thiết. Nhóm Trần Dần – Lê Đạt – Trần Đĩnh – Nguyễn Khải… Nhóm Nguyễn Xuân Khánh – Bùi Ngọc Tấn – Dương Tường – Phạm Toàn – Mạc Lân – Hứa Văn Định… Nhóm Trần Lê Văn – Vũ Bão – Lê Bầu – Ngô Quân Miện… Rồi từ mọi nẻo, những hồn nhân văn lại tụ về chốn ngàn năm văn vật kinh kì và bằng tài năng quí hiếm vốn có, những nhà văn, nhà thơ hậu Nhân Văn – Giai Phẩm lại tìm được vị trí trong xã hội để đóng góp và thể hiện mình.
Những năm tám mươi thế kỉ hai mươi nhà thơ Ngô Quân Miện là Tổng Biên tập báo Độc Lập, tờ báo của Đảng Dân chủ ra đời năm 1944 trong làn sóng những phong trào vận động cứu nước, một tiếng nói văn hoá và trí tuệ của những trí thức lớn: Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Đình Hoè, Đỗ Đức Dục, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Minh Chính, Đặng Thai Mai, Ca Văn Thỉnh, Trần Bửu Kiếm, Tôn Quang Phiệt… Còn nhà văn Vũ Bão là Phó Tổng Biên tập kiêm Trưởng Ban Biên tập báo Điện Ảnh Việt Nam, tờ báo của Bộ Văn hoá – Thông tin.
Tôi may mắn có cái duyên được gặp và có quan hệ thân thiết với Vũ Bão từ thời ông còn lênh đênh trôi dạt, không biên chế, không đồng lương bởi tai nạn Nhân Văn – Giai Phẩm. Tiểu thuyết đầu tay Sắp cưới của ông viết về Cải cách Ruộng đất bị đội quân theo đường lối văn nghệ Diên An, dưới lá cờ lệnh trong tay Tố Hữu chỉ điểm đánh hội đồng. Đang trong biên chế tờ báo của tỉnh uỷ Hà Nam, dù là ngòi bút chủ lực của báo, Vũ Bão cũng bị buộc phải rời khỏi báo, về Ty Nông nghiệp, rồi Ty Thông tin. Nơi nào cũng chỉ làm anh đầu sai, Vũ Bão liền bỏ thân phận đầu sai của viên chức tỉnh lẻ, về Hà Nội tự kiếm sống. Nặng nợ với văn chương, Vũ Bão xin Tô Hoài, Tổng Thư kí Hội Văn nghệ Hà Nội cho sinh hoạt trong hội và xin cấp giấy giới thiệu đến quân đội để được cho đi thực tế ở mặt trận phía Nam.
Người phờ phạc trên chiếc xe đạp rệu rã, Vũ Bão cầm giấy giới thiệu có chữ kí của Tô Hoài tìm đến 47 phố Lý Thường Kiệt, nơi Ban Tuyên huấn Bộ Tư lệnh Thông tin sơ tán. Làm việc tại đó, tôi đã dẫn Vũ Bão đến trung đoàn quân bưu 78 đang sơ tán ở trường Chu Văn An để Vũ Bão được biên chế vào đội hình lính gùi hàng quân bưu vào mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên. Những trang viết của Vũ Bão về những người lính phơi phới niềm tin ở mặt trận Đường 9, Khe Sanh, về người dân Pa Kô ở Khe Tre, Hướng Hoá sườn Đông Trường Sơn hăng hái đi tải thương, gùi đạn trong cuộc chiến tranh do đảng cộng sản phát động được hệ thống tuyên truyền nhà nước sử dụng tức thì đã đưa tên tuổi Vũ Bão từ trong lãng quên trở lại trên trang sách, trở lại mặt báo chính thống và đưa Vũ Bão trở lại hàng chức sắc, trở lại biên chế công chức nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, rồi Phó Tổng Biên tập báo Điện Ảnh Việt Nam.
Khi Vũ Bão được Bộ Văn hoá – Thông tin giao việc dựng lên tờ báo Điện Ảnh thì tôi đang làm biên kịch ở Xưởng phim Quân đội. Từ nhà 65 phố Trần Hưng Đạo, trụ sở báo Điện Ảnh Việt Nam, Vũ Bão thường xuyên trên chiếc xe đạp tàng lóc cóc đến tôi ở xưởng phim, nhà 17 phố Lý Nam Đế. Không phải chỉ là Phó Tổng Biên tập kiêm Trưởng Ban Biên tập tờ báo Điện Ảnh Việt Nam chuẩn bị ra đời đến với người viết về điện ảnh để đặt bài mà Vũ Bão đến với tôi còn như đến với kí ức, đến với một thời chỉ có gừng cay muối mặn không thể quên của cuộc đời.
Từ đó Vũ Bão thường kéo tôi đi với ông rong ruổi khắp nẻo đường Hà Nội. Đến Hãng Phim truyện đầu phố Thuỵ Khuê xem bộ phim mới. Đến Hãng Phim Tài liệu gần cuối đường Hoàng Hoa Thám dự buổi duyệt phim. Đến gặp các nhân vật điện ảnh. Vũ Bão còn dẫn tôi đến những người bạn đồng cảm thân thiết trong hoạn nạn của ông.
Để chiếc xe đạp ở chỗ tôi rồi Vũ Bão dẫn tôi đi bộ vài trăm mét đến nhà văn Lê Bầu ở 105 phố Phùng Hưng. Gian nhà hơn mười mét vuông ngăn đôi. Nửa của nhà thơ “Lúa tháng năm kén tằm vàng óng / Hạt khô giòn đem đóng thuế nông…” Huyền Tâm. Nửa của Lê Bầu, người được sang Trung Quốc học chữ Hán từ cuối kháng chiến chống Pháp nay là nhà văn thay hồn chữ Hán của Quỳnh Dao, của Giả Bình Ao bằng hồn chữ Việt. Nhà chật chỉ có chiếc giường đơn kê sát tường trong cùng. Có chiếc bàn nhỏ làm việc mà không có chỗ đặt ghế, phải ngồi mép giường gõ máy chữ Olympia đặt trên bàn. Khoảng nhà còn lại là chỗ của cái bếp dầu, cái xô nước, vài cái bát, cái nồi và manh chiếu tiếp khách trải trên nền nhà vừa kín diện tích chưa đến chín mét vuông. Nhiều tối khuya, Vũ Bão và tôi đã ngồi với Lê Bầu trên manh chiếu cơ hàn, nghèo khổ đó.
Buổi tối la cà đến Lê Bầu. Nhiều lần trong giờ làm việc, từ 65 Trần Hưng Đạo, Vũ Bão lại dẫn tôi đi bộ cũng chỉ vài trăm mét sang 59 Lý Thường Kiệt, vào phòng Tổng Biên tập báo Độc Lập Ngô Quân Miện. Phòng rộng rãi, sáng sủa. Nhìn qua cửa sổ hướng Nam thấy vòm lá sưa lao xao gió.
Một lần Ngô Quân Miện đang tiếp chúng tôi thì Trần Huy Quang vào gặp. Qua lời giới thiệu của Ngô Quân Miện cũng thấy được tình cảm của tổng biên tập dành cho phóng viên Trần Huy Quang. Tôi gặp Quang lần đầu trong không gian và giữa những con người như vậy. Có phải không gian ấy, những con người ấy đã gợi mở tư duy cho Trần Huy Quang để sau này Quang có Câu chuyện về ông Vua Lốp và có Linh nghiệm?
3. Bút kí giải nhất văn chương
Lính pháo binh ở mảnh đất mưa bom bão đạn Quân khu Bốn. Học Khoa Sử nổi tiếng với những người thầy uyên bác, sắc sảo, đầy cá tính sáng tạo như Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội danh giá nhất trong các trường đại học ngày đó. Phóng viên báo Độc Lập với bút danh Nhật Linh. Nhà báo Nhật Linh Trần Huy Quang giữ nguyên cốt cách xông xáo của người lính chiến và nhìn nhận hiện thực bằng con mắt lịch sử.
Chiến tranh là xung đột lợi ích nhà nước, là giành giật không gian thống trị của hai thế lực nhà nước. Chiến tranh là nút thắt của sự sống. Người lính phải xông vào nút thắt chết chóc để mở ra cuộc sống bình yên. Cuộc sống đời thường là xung đột lợi ích con người, là giành giật lợi ích của những cá thể. Xung đột lợi ích là nút thắt cản trở dòng chảy cuộc sống. Nhà báo phải nhận ra những xung đột lợi ích, chỉ ra nút thắt của dòng chảy cuộc sống. Có gỡ được nút thắt, dòng chảy cuộc sống mới trôi chảy, hài hoà và tiến triển mạnh mẽ, không bị trì trệ, tụt lại phía sau.
Với bài viết về ông vua lốp xe đạp Nguyễn Văn Chẩn, Nhật Linh Trần Huy Quang đã chỉ ra một nút thắt tưởng như nhỏ bé trong đời sống kinh tế nhưng lại là nút thắt nghiệt ngã trong lòng người và nút thắt định mệnh của một thể chế.
Mỹ tuyên bố cho máy bay đánh phá Bắc Việt, đưa Bắc Việt về thời đồ đá. Thực tế, miền Bắc Việt Nam không về thời đồ đá mà còn tệ hơn: về thời đồ đểu. Cả miền Bắc chỉ có một cái chợ chính thống chi phối đời sống xã hội là chợ mậu dịch quốc doanh. Mọi nhu cầu cuộc sống của người dân đều do mậu dịch quốc doanh cung cấp. Nhưng chỉ có cái chợ quốc doanh Tông Đản, gần Nhà Hát lớn Hà Nội, chợ của quan cấp cao, mới luôn đầy đủ hàng hoá cao cấp từ chiếc tủ lạnh Saratov của Liên Xô đến bao thuốc là Đại Tiền Môn của Trung Quốc, giá thực vô cùng cao mà bán cho quan cấp cao rẻ như cho không.
Còn chợ quốc doanh bán hàng thiết yếu cho cuộc sống người dân sau chiến tranh Nam Bắc kết thúc cả chục năm, hàng hoá vẫn trống rỗng. Người dân thiếu thốn từ cái kim sợi chỉ. Mặt hàng tầm tầm, không đòi hỏi kĩ thuật cao mà cuộc sống cần, chợ quốc doanh không cung cấp được thì chợ tự phát cung cấp. Hàng thật không có thì có hàng giả, hàng đểu. Hàng đểu tràn ngập từ chợ vỉa hè tấp nập phố phường Hà Nội đến chợ quê vùng sâu vùng xa.
Suốt nửa sau thế kỉ hai mươi, người dân cả miền Bắc rồi người dân cả nước di chuyển trên chiếc xe đạp. Xe đạp đi làm, đi học. Xe đạp nối những người thân trong một gia đình tung toé đi kiếm sống khắp mọi ngả đường đất nước. Ô tô rất hiếm. Hàng hoá cần vận chuyển thì chất lên xe ba gác, lên xích lô, lên xe đạp thồ. Chiếc lốp xe đạp của đời sống xã hội như cơm ăn của con người. Lốp xe đạp của nhà máy cao su Sao Vàng chỉ có thể cung cấp nhỏ giọt cho viên chức nhà nước. Cả năm trời mới có đợt phân phối lốp xe đạp. Hơn chục người nín thở bốc thăm mới có một người may mắn thở phào nhẹ nhõm, sung sướng bốc được phiếu mua lốp.
Chợ quốc doanh không có lốp thật của nhà máy cao su Sao Vàng thì chợ vỉa hè có ngay lốp mang nhãn hiệu Sao Vàng nhưng là lốp giả, lốp đểu của những lò làm lốp thủ công lẩn khuất trong ngõ sâu, núp sau một công việc hợp pháp của những người thừa lòng tham, thừa mưu mẹo gian dối, chụp giật mà không có lương tâm và tầm vóc của một doanh nghiệp chân chính.
Ông Nguyễn Văn Chẩn không đi theo con đường gian dối, chụp giật, kinh doanh núp bóng nhãn hiệu Sao Vàng mà ông đàng hoàng tạo ra nhãn hiệu lốp Nguyễn Thái Học và tạo ra danh tiếng Vua Lốp. Xẻ chiếc lốp Sao Vàng ra xem thành phần cấu tạo. Đi gom nhặt lốp ô tô cũ vất đầy những bãi hoang. Bóc tách vải bố lốp ô tô cũ làm vải bố lốp xe đạp. Đến bãi thải nhà máy cao su Sao Vàng, lúc đầu thoải mái gom nhặt cao su thải, sau kí hợp đồng mua cao su loại bỏ của nhà máy với giá rác thải. Mày mò tạo ra dây chuyền công nghệ nấu cao su, ép lốp.
Từ vải bố lốp ô tô cũ, từ cao su Sao Vàng thải, tổ sản xuất Quyết Thắng do ông Nguyễn Văn Chẩn đứng tên đăng kí kinh doanh tạo ra những chiếc lốp xe đạp, xe thồ, xe xích lô, trên lốp in rõ hàng chữ tên cơ sở sản xuất Quyết Thắng, nơi sản xuất phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội, lập tức được thị trường ưa chuộng. Nhất là những người chạy xe thồ, đạp xích lô thì mê tít vì lốp Nguyễn Thái Học rẻ hơn hẳn lốp Sao Vàng, lại có sẵn ở mọi cửa hàng bán đồ xe đạp phố Huế.
Người mua không cần nhớ, không cần biết tên cơ sở sản xuất vì cái tên Quyết Thắng đang thịnh hành, xuất hiện khắp nơi. Đến hộp tăm tre cũng có hàng chữ “Tổ sản xuất tăm tre Quyết Thắng”. Cái tên Quyết Thắng chẳng xác định được điều gì, còn nơi sản xuất ở phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội chỉ có một, là sự xác định rõ ràng. Nơi làm ra chiếc lốp xe đạp được tin dùng, mang lại sự yên tâm vì dễ dàng mua được, không cần chờ phân phối nhỏ giọt, vì chất lượng tốt trở thành tên gọi trên thị trường: Lốp xe Nguyễn Thái Học.
Chiếc xe đạp như một phần cơ thể của người dân Việt Nam thời đói khổ, thiếu thốn. Thời đó dân gian định nghĩa về cơ thể con người là: Con người gồm đầu, mình, chân tay và xe đạp. Trong chiếc xe đạp thì lốp xe lăn trên đường, bị mặt đường cào, thúc, mài mòn, nhanh bục nát nhất. Lốp bục, không có xe chạy, con người thành tàn tật. Lốp xe càng được sự quan tâm hàng đầu, là nỗi lo thường trực của người kiếm sống trên hai bánh xe, người đạp xích lô, người chạy xe thồ. Lốp xe đạp Nguyễn Văn Chẩn đã lấp được khoảng trống của một mặt hàng thiết yếu, đáp ứng được một nhu cầu cấp bách của cuộc sống, tạo được sự lành mạnh cho một thị trường đang hỗn loạn.
Nhưng thị trường có hỗn loạn thì những người làm ăn bất chính mới có đất sống. Thế là tới tấp đơn tố cáo gửi đến các cơ quan nhà nước vu khống người sản xuất kinh doanh chân chính Nguyễn Văn Chẩn. Các cơ quan pháp luật lập tức sốt sắng vào cuộc và người trung thực làm ra chiếc lốp xe đạp tốt và rẻ đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội liền bị truy tố tội danh rất nặng nề nhưng cũng rất mơ hồ, mù mờ, tội đầu cơ kinh tế, tội tiêu thụ tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt. Ông Chẩn bị bắt giam. Nhà xưởng, công cụ, vật tư sản xuất và toàn bộ tài sản có giá trị của gia đình bị tịch thu. Ròng rã năm này sang năm khác khiếu nại với đầy đủ chứng từ, số liệu sổ sách chứng minh sự làm ăn chính đáng, minh bạch, hơn hai năm sau ông Nguyễn Văn Chẩn mới có quyết định đình chỉ điều tra nhưng tư liệu sản xuất và tài sản gia đình của ông bị tịch thu thì đã tan biến, không còn gì để hoàn lại cho ông.
Dân gian đúc kết: Có chí làm quan, có gan làm giầu. Đồng vốn đã trống rỗng. Niềm tin cũng đã trống rỗng. Cái gan gây dựng cơ đồ, làm giầu cho gia đình, đóng góp cho xã hội cũng không còn. Không thể sản xuất trở lại. Những chiếc lốp xe đạp bền và rẻ được ưa chuộng sản xuất ở phố Nguyễn Thái Học có đăng kí, có đóng thuế vắng bóng trên thị trường thì những lò làm lốp chui, lốp đểu không làm giả lốp cao su Sao Vàng nữa mà đổ xô làm giả lốp cao su của vua lốp Nguyễn Văn Chẩn. Những chiếc lốp đểu của những lò sản xuất ma không đăng kí kinh doanh, không đóng thuế ở những xó xỉnh không thể xác định nhưng trên lốp đều có hàng chữ nổi sản xuất ở phố Nguyễn Thái Học lại náo loạn thị trường. Mặt hàng lốp xe đạp lại bịt bùng hàng giả, hàng đểu.
Tôi phải lược lại đường dây sự việc kí sự hơn ba ngàn từ của Câu chuyện về ông Vua Lốp để thấy cốt cách người lính xông xáo, len lỏi vào ngóc ngách cuộc sống, phát hiện xung đột lợi ích, phát hiện nút thắt dòng chảy cuộc đời của nhà báo Trần Huy Quang. Điều lớn hơn nữa là sự việc con người lao động sáng tạo và trung thực Nguyễn Văn Chẩn bị vô hiệu, giá trị thật bị loại bỏ để giá trị giả lên ngôi như một tia chớp trong nhận thức hiện thực cuộc sống, như một cú hích trong vận động tư tưởng của Trần Huy Quang mà sau này bài viết sẽ còn nhắc đến.
Không được thể hiện mình, không thể tồn tại chính danh, phải lui về mai một trong dân gian không chỉ là một thân phận Nguyễn Văn Chẩn mà là thân phận của nhiều con người, nhiều cuộc đời có tấm lòng trung thực, có tài năng đóng góp cho xã hội mà phải sống trong thời đồ đểu là mạch ngầm mà người đọc có cảm thụ tinh tế, có trái tim nhạy cảm với cuộc sống, có tâm hồn rộng mở với cuộc đời sẽ nhận ra. Còn Câu chuyện về ông Vua Lốp chỉ kể một buổi người viết la cà ở phố Huế chuyên bán phụ tùng xe đạp nhận thấy từ cửa hàng lớn, bảng hiệu to trong gian nhà rộng mặt phố đến mẹt hàng di động, trôi dạt ở vỉa hè đều bày bán lốp xe đạp, xe xích lô trên lốp đều có hàng chữ nổi sản xuất tại phố Nguyễn Thái Học rõ nét và được nghe người bán hàng tán tụng về ông Vua Lốp Nguyễn Văn Chẩn làm ra chiếc lốp xe đạp đang tràn ngập thị trường. Người viết liền tìm đến phố Nguyễn Thái Học gặp ông Chẩn thì ông không còn là Vua Lốp mà là lương y, lần hồi kiếm sống qua ngày bằng nghề bốc thuốc Nam và nghe ông kể về đoạn đời Vua Lốp thành công lừng lẫy của ông mà bị mất cơ đồ, phải bỏ sự nghiệp kinh doanh thành đạt về làm ông lang vườn.
Chỉ kể sự việc như đã diễn ra, nhờ vậy kí sự Câu chuyện về ông Vua Lốp của Nhật Linh Trần Huy Quang đã giành giải nhất trong cuộc thi bút kí do báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam cùng Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức ở thời kì đất nước khốn khó, cuộc sống bế tắc, người dân khốn cùng nhất.
4. Đi về giữa nỗi buồn thăm thẳm và niềm vui nhỏ bé
Trần Huy Quang kể với tôi rằng tổ tiên anh phải bỏ kinh đô Thăng Long chạy trốn vào Nghệ An khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tuyệt diệt sạch sành sanh giới quí tộc, quan lại nhà Trần. Tôi lại chợt nhớ nhà văn, đại tá Triệu Huấn, tên khai sinh là Phạm Triệu Huấn cũng kể rằng khi vụ án Lệ Chi Viên xảy ra thì người đàn bà họ Phạm tổ tiên của ông đang mang trong người giọt máu dòng họ Ức Trai Nguyễn Trãi ở Nhị Khê phải lẩn trốn cuộc thảm sát ba dòng họ. Gốc gác họ Nguyễn làng Nhị Khê nhưng lại mang họ Phạm của Triệu Huấn có từ đó. Từ Trần Huy Quang, từ Triệu Huấn, tôi nhận ra rằng những cốt cách trí lự, tài năng hơn người dường như đều phải có cội nguồn sâu xa.
Quang cũng kể với tôi là trước năm 1945 Quang ở Hà Nội với bố. Từ bãi biển Quỳnh Lưu, bố Quang tìm về nơi nhà Trần dựng nghiệp và ông đang buôn bán khấm khá ở kẻ chợ Hà Nội thì ầm ầm bão táp Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra. Quyền lực nhà nước theo tiến trình lịch sử phải từ giai cấp quí tộc phong kiến suy tàn chuyển giao cho giai cấp ở đẳng cấp tiến bộ hơn, đó là giai cấp tư sản, đưa xã hội từ nền sản xuất nông nghiệp trì trệ vào nền sản xuất công nghiệp phát triển. Bảo Đại, nhà vua của quí tộc phong kiến đang lụi tàn lập chính phủ Trần Trọng Kim của giai cấp tư sản, trí thức đang thức dậy, vươn vai lớn mạnh là hợp tiến trình lịch sử và chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ chính danh, đáp ứng được đòi hỏi của thời đại. Đảng của giai cấp vô sản, của dân nghèo cùng khổ làm cách mạng cướp chính quyền của trí thức và nghiệp chủ là cuộc cách mạng ngược tiến trình lịch sử.
Sống trên mảnh đất đã diễn ra cuộc bạo loạn Xô-Viết Nghệ Tĩnh tháng Chín năm 1930, doanh nhân dòng dõi nhà Trần nhận ra rằng chính đảng đã làm cuộc thảm sát tắm máu trí, phú, địa, hào ở Nghệ An, Hà Tĩnh năm 1930 nay nắm quyền thống trị cả nước thì thời làm giầu của ông không còn nữa. Không còn nữa cả giới chủ doanh nghiệp đang kinh doanh dựng nghiệp, đang gắng gỏi đua tranh với chủ doanh nghiệp người Pháp, người Hoa, người Ấn, mở ra sự phát triển mạnh mẽ cho đất nước, đưa xã hội Việt Nam tối tăm, trì trệ, bùn lầy nước đọng của nền kinh tế nông nghiệp cổ xưa hăm hở bước vào ánh sáng của nền kinh tế công nghiệp và thương nghiệp năng động.
Nhắc đến ông bố có chí làm giầu mà không gặp thời rồi Quang nhìn vào xa xăm, nói giọng xa vắng như tự nói với mình: Cách mạng Tháng Tám 1945 thực sự là cuộc cướp ngôi bất chính. Vẫn như tự sự, Quang quay sang nhìn tôi và diễn giải lịch sử: Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần chỉ diệt quí tộc, tinh hoa một dòng họ Trần. Cách mạng Tháng Tám tiêu diệt cả tầng lớp tinh hoa của tất cả các dòng họ Việt Nam, tiêu diệt cả ý chí làm giầu chấn hưng đất nước và tiêu diệt cả tài năng lao động sáng tạo bẩm sinh của con người Việt Nam. Tôi lại nhận ra thêm một điều: Học trò thầy Trần Quốc Vượng, cử nhân Khoa Sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông bạn Trần Huy Quang của tôi, đã nhìn lịch sử đất nước qua chính số phận gia đình mình.
Khi người Hà Nội đục thông những tường nhà san sát nhau, mở ra con đường xuyên qua những vòm tường nham nhở trong lòng những dãy nhà phố cho tự vệ chiến đấu di chuyển, khuân cả tràng kỉ, sập gụ gỗ quí ra đường phố, dựng chiến luỹ chặn bước tiến của quân Pháp, ôm bom ba càng đánh xe tăng Pháp và giành giật từng căn nhà với lính Pháp. Khi Hà Nội mịt mù khói lửa và rát rạt những đường đạn giết chết sự sống. Khi người dân Hà Nội dắt díu nhau, sấp ngửa rời ba mươi sáu phố phường tránh lửa đạn chiến tranh, bố Quang cũng rời kẻ chợ Hà Nội về làng quê Kẻ Mơ, Quỳnh Minh, Quỳnh Lưu, Nghệ An, nơi ông có căn nhà và mảnh vườn nhìn ra biển Quỳnh Lưu, buôn bán nhỏ nuôi vợ con qua ngày.
Tháng Mười Hai năm 2018, tôi đã về ở với Quang gần một tuần ở căn nhà có mảnh vườn nhỏ trồng sưa bên bãi biển Quỳnh Minh, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Lại phải kể khúc nhôi đôi điều về con đường đưa Quang đi về giữa hai chốn gắn bó của cuộc đời mình. Đi về từ gian phòng trên gác hai nhà 56 phố Bà Triệu, Hà Nội, đến ngôi nhà bên bãi biển làng Kẻ Mơ, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Đi về giữa hiện tại và quá khứ.
Suốt hai cuộc chiến tranh từ 1946 đến 1975, nhà văn Nguyên Ngọc xông xáo ở mặt trận Khu Năm ác liệt, để lại dấu chân người lính Nguyên Ngọc từ núi rừng Ngọc Linh, Kontum đến làng ven biển Sa Huỳnh, Tam Quan, Bình Định. Ngày là người lính cầm súng đánh giặc. Đêm trong căn hầm sát đồn bốt giặc, người lính Nguyên Ngọc lại trở về sứ mệnh nhà văn, cầm bút viết Rừng Xà Nu, viết Đường chúng ta đi, những truyện ngắn và tuỳ bút mang hơi thở cuộc kháng chiến, mang hào khí dựng nước và giữ nước. Năm 1987, nhà văn lính Nguyên Ngọc nhỏ bé, gày guộc, nước da còn xanh như lá rừng, xạm màu đá núi bởi sốt rét được Ban Thư kí, Hội Nhà văn Việt Nam giao trách nhiệm làm Tổng Biên tập tuần báo Văn Nghệ thay nhà văn Đào Vũ cao lớn, bảnh bao, trắng trẻo, hồng hào vì chỉ quanh quẩn ở Hà Nội.
Thời chiến tranh, người lính xông vào nút thắt chết chóc để mở ra dòng chảy cuộc sống bình yên. Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, nhà văn mang cốt cách người lính Nguyên Ngọc cũng đòi hỏi người làm báo Văn Nghệ phải có con mắt sắc sảo nhìn ra nút thắt cản trở dòng chảy cuộc sống. Con mắt sắc sảo của người làm báo cũng phải như đường đạn thẳng căng của người lính quất vào kẻ thù. Ông không chấp nhận những nhà báo chỉ là công chức hành chính, sáng đến ngồi trong căn phòng lặng ngắt, hít thở không khí ngưng đọng rồi hờ hững, vô cảm nhìn vào trang giấy trước mặt như một người máy. Hết giờ làm việc chiều, la đà men bia ở vỉa hè, men rượu trong nhà hàng mới là lúc trở về con người thực nhưng chỉ là con người sinh vật, không hề có bóng dáng của con người xã hội. Nhà báo như vậy chỉ có nếp nghĩ mòn cũ, cảm xúc vay mượn, gọi dạ bảo vâng. Ông cần những người làm báo có phẩm chất người lính, có ý thức về bổn phận công dân. Hai nhà văn xông xáo và sắc sảo phát hiện nút thắt cuộc sống, Trần Huy Quang ở báo Độc Lập và Hoàng Minh Tường ở báo Người Giáo Viên Nhân Dân được Nguyên Ngọc đón về báo Văn Nghệ.
Lập tức báo Văn Nghệ lột xác. Cuộc sống vật vã của đất nước, cuộc sống gian nan của người dân tràn vào trang báo. Người dân thấy bóng dáng của mình, thấy những vấn đề gấp gáp đang đặt ra với đất nước ở những phóng sự chân thực: Người biết làm giầu, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Làng giáo có gì vui?, Anh hùng khi đã sa cơ của Hoàng Minh Tường. Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc. Con đường có máu chảy của Trần Quang Quý. Tiếng đất của Hoàng Hữu Các. Người đàn bà quỳ của Trần Khắc. Đá nổi xôn xao của Hoài Tố Hạnh… Ngày báo phát hành, sáng thứ Sáu hàng tuần, trước trụ sở báo Văn Nghệ, 17 phố Trần Quốc Toản, Hà Nội, từ sáng sớm đã có rất đông người chầu chực chờ mua báo chở từ nhà in về. Số lượng phát hành từ năm ngàn nhanh chóng tăng lên hơn trăm ngàn tờ, tăng gấp hơn hai mươi lần, mang lại lãi lớn. Lãi lớn về tiền bạc cho tờ báo đang lay lắt, kiệt quệ. Lãi lớn về thanh danh, uy tín cho Hội Nhà văn Việt Nam đang là chiếc bóng mờ nhạt của tuyên giáo. Tờ báo thu hút đông đảo người dân cùng trăn trở nghĩ suy với những vấn đề đặt ra của đất nước là lãi lớn về chính trị cho chính quyền, cho nhà nước.
Nhưng thật trớ trêu. Được lãi lớn như vậy lại là nỗi lo của những người độc quyền quyền lực. Dù đời sống kinh tế đã xoá bỏ bao cấp, kinh tế đã đa nguyên, đa thành phần. Mỗi thành phần kinh tế đều cần có tổ chức chính trị, cần có tiếng nói chính trị trong xã hội. Nhưng đời sống chính trị vẫn bao cấp, vẫn chỉ có một tổ chức chính trị là đảng cộng sản độc quyền quyền lực nhà nước, thì vẫn chỉ có một tiếng nói chính trị mà báo Văn Nghệ của Nguyên Ngọc lại nói tiếng nói của cuộc sống.
Bao cấp chính trị thì đời sống văn hoá, tinh thần, tư tưởng, tình cảm vẫn phải bao cấp, vẫn phải có định mức, định hướng. Người dân được đọc, được xem, được suy nghĩ gì, được biết sự thật gì, biết đến mức độ nào, đều có định hướng và định mức. Báo Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc đã vượt qua cái định mức, định hướng làm nghèo khổ đời sống văn hoá, tinh thần người dân đến mức ngu dân. Như người dân đã phải chịu nghèo khổ đến thấp hèn đời sống vật chất thời bao cấp kinh tế. Người dân được đọc sự thật trần trụi về thân phận con người, sự thật day dứt về hiện tình đất nước quá định mức cho phép là lệch lạc nghiêm trọng. Những người độc quyền quyền lực, độc quyền ban phát đời sống văn hoá, tinh thần, tư tưởng, tình cảm cho dân thấy lo lắng, bất an. Lo lắng đến nỗi phải điều hàng chục công an chìm, công an nổi đến canh chừng người dân sáng thứ Sáu hàng tuần náo nức kéo đến báo Văn Nghệ chờ mua báo.
Trong nỗi lo sợ người dân biết sự thật hiện tình đất nước, trong nỗi bất an của quyền lực, báo Văn Nghệ bị qui kết xa rời sự lãnh đạo của đảng. Nguyên Ngọc phải thôi chức tổng biên tập chỉ sau hơn một năm nỗ lực mang đến cho báo sức sống mạnh mẽ và lành mạnh, làm cho tờ báo thực sự là tiếng nói của bổn phận và lương tri công dân, tiếng nói của bổn phận và lương tri sĩ phu với đất nước. Đầu năm 1989, nhà thơ Hữu Thỉnh về quản lí báo Văn Nghệ thay thế Nguyên Ngọc. Báo Văn Nghệ lại trở về là chiếc tủ kính bóng bẩy nhưng lặng ngắt trưng bày những mặt hàng văn chương gia công cho tuyên giáo, lại trở về an phận làm tờ báo công cụ của tuyên giáo và cung kính hướng thượng, đón ý quyền lực. Không cần hướng đến nhân dân. Không cần hướng đến cuộc sống đất nước.
Nguyên Ngọc, sinh năm 1932 cùng các nhà văn Nguyễn Đình Thi 1921, Bùi Hiển 1919, Nguyễn Văn Bổng 1921, Nguyễn Khải 1930… là lứa nhà văn ít nhiều có nền tảng văn hoá giáo dục Pháp, nền giáo dục dạy con người kiến thức văn hoá nhân loại, dạy tư thế và tư cách con người nhân loại, con người tự do sáng tạo, làm giầu có thêm kho tàng văn hoá nhân loại. Hữu Thỉnh sinh năm 1942, lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở vùng Pháp chiếm đóng. Mười tuổi đã bị lính Pháp bắt về đồn làm lao dịch. Miền Bắc sạch bóng giặc Pháp, Hữu Thỉnh mới được cắp sách đến nhà trường xã hội chủ nghĩa, tiếp nhận nền văn hoá, giáo dục xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục coi giáo dục lí tưởng cộng sản và đào tạo con người công cụ là mục đích.
Đương nhiên Trần Huy Quang và tôi cũng là sản phẩm của nền giáo dục đào tạo công cụ và chúng tôi đã mất cả những năm tháng dài sung sức nhất, đẹp nhất, quí giá nhất của cuộc đời làm công cụ cầm súng đi vào cõi chết mở rộng lãnh thổ cai trị của đảng cộng sản trên cả đất nước. Quang và tôi đều có may mắn sống sót trở về. May mắn hơn nữa là thực tế cuộc đời và trí tuệ, lương tâm đã thức tỉnh chúng tôi. Tôi đã từ bỏ đảng cộng sản và từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam mà nhiều người vẫn gọi là Hội Nhà văn Hữu Thỉnh.
Đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2021, hơn hai mươi năm Hữu Thỉnh ồ ạt đưa vào hội khá đông những người hoàn toàn thiếu vắng cảm hứng văn học. Không có hồn nhân văn để cảm hứng về thân phận con người mà chỉ có con người công cụ tuyên truyền. Không có cảm hứng của nghệ sĩ sáng tạo, chỉ có cảm hứng vay mượn, cảm hứng áp đặt của tuyên giáo. Chỉ có cảm hứng phơi phới đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Phơi phới tự hào cho họ say sưa ngợi ca cuộc cách mạng ngược tiến trình lịch sử, cho họ niềm vui sướng, thoả mãn của bên thắng cuộc trong cuộc chiến tranh đau thương, tủi nhục người Việt giết người Việt. Hơn hai chục năm đứng đầu Hội Nhà văn, Hữu Thỉnh đã nâng số hội viên từ hơn bốn trăm lên hơn một ngàn. Ngoài những cây bút có cá tính sáng tạo, lặng lẽ với trang văn, hàng trăm hội viên được Hữu Thỉnh kết nạp chỉ là một dàn đồng ca theo chiếc đũa chỉ huy của ban tuyên giáo.
Là bí thư đảng đoàn Hội Nhà văn, Nguyên Ngọc viết Đề dẫn của hội xác định con người cá nhân, con người tự do và con người nhân loại của nhà văn, nhìn nhận những hạn chế lịch sử của đội ngũ nhà văn công nông và đòi hỏi trách nhiệm nhà văn với thời đại, với đất nước, với nhân dân. Đứng đầu báo Văn Nghệ, Nguyên Ngọc đưa tờ báo hoà nhập vào cuộc sống, nói tiếng nói trung thực của cuộc sống đất nước, mang lại sức sống lành mạnh, cường tráng cho tờ báo. Văn Nghệ trở thành thực phẩm bổ ích, cần thiết trong đời sống văn hoá của đông đảo người dân. Đưa số lượng phát hành Văn Nghệ từ năm ngàn lên hơn trăm ngàn.
Đứng đầu Hội Nhà văn, hàng năm Hữu Thỉnh chạy đến cơ quan phân bổ ngân sách quốc gia nỉ non xin tiền, xin ô tô cho hội. Xin được tiền, Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh hớn hở: Nhà nước vẫn nuôi anh em chúng ta! Mỗi năm người đứng đầu Hội có cả chục tỉ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân vung vinh tiêu xài trong sinh hoạt hội, rộng rãi ban phát ân sủng cho hội viên với tên gọi “Đầu tư sáng tác”.
Tiền “Đầu tư sáng tác”cho hội viên cũng là tiền đầu tư phiếu bầu, cho Hữu Thỉnh đứng đầu Hội Nhà văn liền bốn khoá. Cũng là tiền mua ngòi bút, mua linh hồn nhà văn. Các nhà văn hầu hết đều là công chức, viên chức, có lương ổn định. Tác phẩm được xuất bản có nhuận bút. Nay lại có khoản tiền mưa móc “Đầu tư sáng tác”. Những nhà văn đích thực đều cúi mặt ngậm ngùi. Một số hội viên như Nguyên Ngọc, Ý Nhi dứt khoát không nhận đồng tiền móc túi ngân sách, đồng tiền ăn vạ mồ hôi nước mắt của dân và không thể tiếp tục là hội viên một tổ chức ăn bám nữa. Còn những hội viên ngửa tay nhận tiền “Đầu tư sáng tác” thì cứ hoan hỉ sung sướng trong dàn đồng ca.
Đứng đầu báo Văn Nghệ, Hữu Thỉnh chạy đến các cơ quan quyền lực Hà Nội xin đất vàng kinh kì rồi phân lô cấp cho người của báo. Trần Huy Quang được báo Văn Nghệ thời Hữu Thỉnh cấp đất làm nhà ở phố Nguỵ Như Kontum trong khu thủ đô mở rộng khang trang, hiện đại ở Mỹ Đình.
Giao lô đất mưa móc được Hữu Thỉnh ban phát cho con, Quang vẫn ở căn gác nhà 56 phố Bà Triệu. Nhà thơ Vân Long mua được nhà, chuyển đến nhà mới, nhượng lại nửa gian nhà cho Quang. Có cả gian nhà rộng rãi trên gác hai nhìn xuống phố Tây sang trọng trung tâm thủ đô nhưng khi nghỉ hưu, Quang về sống trên mảnh đất của cha ông để lại ở Kẻ Mơ, Quỳnh Minh, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Gian nhà trên gác hai phố Bà Triệu chỉ như lãnh sự quán để Quang đi về gặp gỡ bầu bạn, tiếp nhận hơi thở đời sống văn chương, nắm bắt thời sự hoạt động nghệ thuật ở trung tâm văn hoá đất nước. Đi về giữa kẻ chợ Hà Nội và Kẻ Mơ Quỳnh Lưu, Quang như đi về giữa hiện tại và quá khứ. Đi về giữa nỗi buồn thăm thẳm và niềm vui nhỏ bé. Đi về giữa nơi bon chen thật giả khôn lường và miền yên tĩnh. Đi về giữa chốn day dứt và nơi thanh thản.
(Xem phần 2, phần 3, toàn bài trong bản PDF)
© Phạm Đình Trọng và Pro&Contra
Categories: Chính trị Việt Nam