Tác giả

Danh mục

Trang

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (4)

Th8 22, 2013

Xem kì 1, kì 2, kì 3

CHƯƠNG III: NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ

Mục I: KHÁI NIỆM CHÍNH ĐÁNG

Đoạn 1: HỢP PHÁP VÀ CHÍNH ĐÁNG

Đoạn 2: NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ: NGUYÊNTẮC CHÍNH ĐÁNG TRONG XÃ HỘI CẬN ĐẠI

Khi chúng ta đề cập đến vấn đề quốc gia – dù theo quan niệm các nhà xã hội học hay luật gia hay là cũng như chúng ta đã biết – dù là một chính quyền được định chế hóa, sự kiện mà chúng ta phải lưu ý và đã lưu ý là sự phân chia giữa nhà cầm quyền và quần chúng bị trị vì quốc gia – nghĩa là chính quyền – có độc quyền sử dụng lực lượng vật chất (cảnh bị và quân sự).

Đó là thực tại. Tuy nhiên nhận xét như thế không có nghĩa là quan niệm rằng cuộc sinh hoạt chính trị trong quốc gia chỉ dựa trên sự cưỡng bách. Không có một sự cưỡng bách nào, một sự đàn áp nào có thể tồn tại mãi vì đó đã là một hiện tượng tạm thời và đặc biệt.

Nếu quyền lực của quốc gia luôn luôn đi đôi với cưỡng bách, quyền lực quốc gia không phải chỉ dựa trên sự cưỡng bách. Vì quyền lực quốc gia là một quyền lực pháp lý.

Quyền lực pháp lý có nghĩa là quần chúng phục tùng quyền lực ấy không phải vì sợ sệt mà chính vì có cảm tưởng rằng quyền lực ấy cần phải được vâng lời. Nói một cách khác, cuộc sinh hoạt thường xuyên trong một quốc gia được bảo đảm – không phải vì quân đội hay cảnh sát đứng đầy đường – mà trái lại vì công dân nhận thức rằng uy quyền quốc gia cần phải được tôn trọng vì đó là uy quyền chính đáng.

Khái niệm chính đáng là một khái niệm tối quan trọng vì nó là căn bản của mối đồng tâm chính trị. Để hiểu rõ, cần phải phân biệt thế nào là chính đáng, thế nào là hợp pháp.

Đoạn 1: HỢP PHÁP VÀ CHÍNH ĐÁNG

A. Hợp pháp

Hợp pháp tức là phù hợp với luật pháp, tức là không trái với cái trật tự hiện hữu. Một hành vi, một hiện tượng hợp pháp là một hành vi hay hiện tượng xảy ra một cách thường xuyên trong khung cảnh và trật tự hiện hữu.

Thật vậy, khi chúng ta nhìn vào hệ thống pháp luật của bất cứ một quốc gia nào, chúng ta nhận thấy rằng hệ thống đó là một hệ thống có đẳng cấp. Mọi quy tắc cần phải phù hợp và tôn trọng quy tắc trên. Các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp. Các hành vi pháp lý của nhà cầm quyền hành pháp không thể trái ngược với luật lệ hiện hành. Tóm lại, hiệu lực của mọi quy tắc tùy thuộc ở sự tương đồng với quy tắc cao hơn. Hợp pháp chung qui là sự bất tương phản giữa những quy tắc trong khung cảnh của trật tự hiện hữu.

B. Chính đáng

Danh từ chính đáng gợi lên một ý niệm cái gì không trái với lẽ phải. Chính đáng –  không phải là phù hợp với luật lệ, phù hợp với trật tự hiện hữu – mà là phù hợp với một nguyên tắc căn bản được xem là căn nguyên của chính quyền. Một hành vi hợp pháp là một hành vi ấn định đúng theo những điều kiện dự liệu bởi một qui tắc cao hơn. Một hành vi chính đáng là một hành vi đúng với lẽ phải, phù hợp với sự tư tưởng, sự nhận thức rằng đó là lẽ phải, đó là nguyên tắc của cuộc sống chung.

Đoạn 2: NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ: NGUYÊN TẮC CHÍNH ĐÁNG TRONG XÃ HỘI CẬN ĐẠI

Những nhận xét đó cho chúng ta thấy rằng nguyên tắc chính đáng là nền tảng của chính quyền trong một xã hội nhất định. Nguyên tắc chính đáng là căn nguyên của mối đồng tâm chính trị. Một chính quyền chính đáng – không hẳn là một chính quyền bảo đảm quyền lợi chung – một chính quyền tốt, mà là một chính quyền mà đại đa số quần chúng cho là chính đáng.

Nguyên tắc chính đáng – chung qui là một hệ thống tin tưởng của đa số quần chúng trong một giai đoạn nhất định tin tưởng rằng chính quyền nào đó phù hợp với lẽ phải, với sự sống chung.

Và vì là một lòng tin – nghĩa là cái gì thiêng liêng, sâu xa, mật thiết với tâm tình, cho nên nội dung của sự tin tưởng đó đổi thay tùy theo thời gian và không gian, nghĩa là trong giai đoạn lịch sử và trong một cộng đồng chính trị. Trong một quốc gia nhất định, ở một khoảng thời gian nhất định, đại đa số công dân có một ý niệm khá rõ rệt về tính cách chính đáng của một chính quyền, nghĩa là họ quan niệm rằng một chính quyền phải như thế này, thế này mới được ủng hộ và vâng lời một cách thành thật và tự nhiên.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng, cho đến thế kỷ thứ 18, có thể nói rằng trên toàn cả thế giới, nguyên tắc chính đáng đương thời là Nguyên tắc quân chủ.

Người ta – thời ấy – tin rằng người nắm chính quyền phải là một vị vua, và theo thứ tự phải là hoàng tử mới nối ngôi.

Trong một xã hội tân tiến ngày nay, trong xã hội cận đại, nguyên tắc quân chủ không còn là nguyên tắc chính đáng nữa. Ngày nay, quần chúng trong hầu hết các nước trên thế giới không còn tin tưởng rằng: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Ngày nay nguyên tắc chính đáng là nguyên tắc dân chủ. Như thế có nghĩa là nền tảng của chính quyền do sự đồng ý của công dân. Và sự đồng ý này cần phải được lập đi lập lại. Nghĩa là công dân đồng ý giao phó cho một nhóm người lãnh đạo không phải một cách vĩnh viễn. Trái lại, trong một định kỳ nào đó, sự đồng ý đó có thể bị rút lại để giao phó cho một nhóm khác.

Dù sao xin nhắc lại nguyên tắc dân chủ là nguyên tắc chính đáng trong xã hội cận đại. Và nguyên tắc dân chủ nằm trên sự đồng ý của công dân. Đó là một sự tin tưởng. Chúng ta có thể cho rằng nguyên tắc ấy là sai, cũng như chúng ta có thể nói rằng tin tưởng như thế là đúng. Nhưng đó chỉ là phê bình về giá trị. Sự phê bình không cho phép chúng ta quên rằng sự tin tưởng ở nguyên tắc dân chủ ấy có vì đó là một sự kiện xã hội mà chúng ta không thể phủ nhận.

Để chứng minh sự hiện hữu của sự kiện xã hội này, chúng ta có thể nói rằng trên thế giới ngày nay có thể có những xã hội không dân chủ, những quốc gia không có tính cách dân chủ, nhưng không có một xã hội nào, một quốc gia nào mà ở đấy nhà lãnh đạo không dựa vào nguyên tắc dân chủ.

Từ Tổng thống Johnson ở Mỹ đến ông Kosygin ở Nga[i], xuyên qua De Gaulle, Mao Trạch Đông cũng như Sukarno[ii], Sihanouk, v.v…, ai cũng cho rằng ta đây là dân chủ số một.

Đấy sự tin tưởng ở nguyên tắc dân chủ hết sức lan rộng và mỗi người vịn vào đó để mà chống địch thủ của mình.

Chẳng những trên bình diện quốc tế mà còn ngay trong nội bộ của mỗi quốc gia. Đối lập chống chính quyền, chính đảng này cùng chính đảng khác, giai cấp đấu tranh đều dựa vào nguyên tắc dân chủ.

Mục II: KHÁI NIỆM DÂN CHỦ

Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA

Đoạn 2: CHỦ QUYỀN

Như chúng ta đã nói, nguyên tắc dân chủ được xem là chính đáng trong xã hội ngày nay. Không có ai dám hô hào rằng mình không dân chủ. Xứ nào cũng tự gán cho danh từ dân chủ và khối nào cũng nhận rằng mình là dân chủ chân chính và các nước thuộc khối khác là dân chủ giả hiệu.

Nhưng thế nào là dân chủ? Đâu là nội dung của khái niệm dân chủ? Hẳn các bạn cũng ý thức rằng câu trả lời không phải dễ dàng. Dù thế, cũng phải trả lời vì ý niệm dân chủ tối quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể đi sâu vì các bạn chưa nắm vững nhiều khái niệm liên hệ. Chúng ta sẽ còn dịp để nhận định một cách rõ rệt danh từ dân chủ. Ở đây chỉ là một cái nhìn tổng quát của khái niệm dân chủ.

Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA

A. Có rất nhiều định nghĩa, giải thích hoặc phân tách từ dân chủ:

– Chế độ dân chủ là chế độ trong đó có các người cầm quyền đều do dân bầu lên. Ở chỗ nào có những cuộc bầu cử tự do và thành thật tức là ở chỗ đó có dân chủ.

– Dân chủ là một chính phủ của dân, do dân và vì dân.

– Dân chủ trước hết là tự do.

– Dân chủ chính trị là một chế độ trong ấy sự điều khiển việc nước được đặt dưới sự kiểm soát của dư luận quần chúng, thể hiện bởi đa số công dân trong nước.

B. Đó là một vài định nghĩa tiêu biểu về danh từ dân chủ. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh ở một khía cạnh quan trọng, đều có lý của nó.

Nếu chúng ta xem qua những chủ thuyết về dân chủ và nhìn lại sự diễn tiến của xã hội suốt gần 2 thế kỷ nay, đặc điểm mà chúng ta cần lưu ý, đặc điểm có thể gọi là tinh túy của dân chủ, là khái niệm dân chủ bao gồm hai yếu tố vừa bổ sung vừa mâu thuẫn. Hai yếu tố ấy là tham gia và kháng cự. Thật vậy, nói đến dân chủ là liên tưởng đến sự đồng ý cùng sự tham gia của đa số công dân vào chính quyền. Dân chủ, ở đây, tức là sự đồng hóa tối đa của nhà cầm quyền và dân chúng. Nhưng đồng thời, dân chủ là kháng cự chống chính quyền. Đấy là hai yếu tố tham gia và kháng cự, hai yếu tố vừa bổ sung vừa mâu thuẫn của ý niệm dân chủ. Và hai yếu tố quan trọng của khẩu hiệu dân chủ được chứng minh không những bởi lịch sử mà còn cả trên phương diện lý luận nữa.

  • Thật vậy, xét theo lịch sử, khi phong trào dân chủ chớm nở, dân chủ được quan niệm là một dụng cụ, một thứ khí giới để chống lại chuyên chế, áp bức, cường quyền. Dân chủ có nghĩa là giải phóng con người, đem lại tự do công bằng cho toàn dân. Đó là trạng thái kháng cự của danh từ dân chủ. Đồng thời và lần lần ý niệm dân chủ tiến xa hơn: không những kháng cự chống bạo quyền mà còn tranh đấu để giành lại chính quyền cho nhân dân. Quyền bầu cử càng ngày càng được lan rộng và lần lần đi đến phổ thông đầu phiếu. Những cơ quan không được bầu cử lần lần mất cả quyền hành để nhường chỗ lại cho cơ quan do dân chúng bầu lên. Hậu quả của các sự kiện này là một sự tham gia tích cực càng ngày càng tăng, tham gia của công dân vào việc hành xử chính quyền.
  • Đứng trên phương diện hợp lý mà suy xét, chúng ta cũng nhận thấy sự trùng hợp giữa tham gia và kháng cự. Thật vậy, sự đồng ý của dân chúng chỉ có giá trị khi nào sự đồng ý đó được biểu hiện một cách tự do. Cho rằng chính phủ có lòng dân, cho rằng đảng này được dân bầu để nắm chính quyền, quả quyết như thế chỉ có giá trị trong một khung cảnh tự do không áp lực.

Mà nói đến tham gia kháng cự nghĩa là đề cập đến một nguyên tắc căn bản của nền dân chủ: nguyên tắc tự do chính trị. Tự do chính trị có nghĩa là toàn dân ấn định tự do đường lối chính trị của quốc gia, là mỗi công dân tự do tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị. Dân chủ đòi hỏi rằng mỗi công dân có quyền tham gia – một cách đồng đều nhau – để lấy quyết định liên hệ đến vận mệnh của quốc gia.

Tự do chính trị bao hàm yếu tố tự trị về chính trị của công dân. Tự trị đối với Nhà nước, với chính quyền. Nhà nước – trong chính thể dân chủ – có bổn phận để cho tất cả các ý kiến chính trị thành hình, phát biểu, tuyên bố và ảnh hưởng đến dư luận. Chính quyền không thể ngăn cản một chính kiến nào, một chương trình nào, chính quyền không thể có độc quyền về chính kiến hay đường lối chính trị quốc gia.

Tóm lại, chế độ dân chủ dành một khung cảnh đấu tranh công khai và tự do cho tất cả chính kiến, đấu tranh để chiếm đoạt chính quyền. Tự do chính trị là linh hồn của chế độ dân chủ.

Hơn nữa khi đề cập đến nguyên tắc tự do chính trị cần phải thấu triệt phạm vi giá trị khổng lồ của tự do này. Thật vậy, ý thức chính trị – nghĩa là ý tưởng, lòng tin, cảm tình – không phải có tính cách biệt lập, tách rời trạng thái lương tâm của con người. Trái lại nó tiềm tàng và liên hệ mật thiết với nhân sinh quan và vũ trụ quan của con người. Bởi thế, tự do chính trị không thể tách rời tự do tín ngưỡng và một cách tổng quát tự do tinh thần. Chế độ dân chủ từ khước Nhà nước – độc quyền sử dụng, chi phối cuộc sống tinh thần của công dân.

Đoạn 2: CHỦ QUYỀN

Đề cập đến chủ quyền tức là đề cập đến hai vấn đề tối quan trọng liên quan đến hai khía cạnh của thuyết chủ quyền, đó là vấn đề nguồn gốc của chủ quyền và vấn đề ai nắm chủ quyền.

A. VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC CHỦ QUYỀN

Trái với các thuyết thần quyền quan niệm rằng chủ quyền bắt nguồn từ Thượng đế, chủ nghĩa dân chủ giải quyết vấn đề nguồn gốc chủ quyền bằng giả thuyết Dân ước. Theo giả thuyết này, chủ quyền là kết quả của một khế ước mà mọi người quyết định từ bỏ trạng thái thiên nhiên để thành lập xã hội. Hai tác giả trứ danh: người Anh John Locke trong quyển Essai sur le gouvernement civil[iii] và người Pháp J.J. Rousseau trong quyển Du Contrat Social đã phổ biến ý tưởng quan trọng này.

1. Con người trong trạng thái thiên nhiên

Trạng thái thiên nhiên là trạng thái của loài người trước khi thành lập xã hội. Theo Locke, trạng thái thiên nhiên là trạng thái của tự do và bình đẳng. Con người hoàn toàn sống sung sướng – trong trạng thái này. Tuy nhiên, con người – dù sung sướng – vẫn chưa được hoàn toàn. Con người vì dục vọng, vì quyền lợi có thể thiên vị trong việc xét đoán những vấn đề liên hệ đến mình hay gia đình mình. Sự thiếu công bình này có thể là đe dọa trực tiếp cho tự do và bình đẳng thiên nhiên của loài người. Vì thế cần có luật lệ rõ ràng mà mọi người công nhận; cần có uy quyền để phán xét phân minh. Và nhu cầu này dẫn đến việc từ bỏ trạng thái thiên nhiên để thành lập xã hội.

Theo Rousseau, con người, trong trạng thái thiên nhiên, sống riêng nhau và ít liên lạc với nhau. Vì con người bẩm tính vốn tốt, vì tính vị kỷ không có cơ hội xuất hiện, trong trạng thái thiên nhiên không có thù oán nhau, xung đột nhau. Mọi người sống một đời sống giản dị, đơn sơ, bình đẳng và hưởng tất cả quyền thiên nhiên của mình. Tuy nhiên vì nhu cầu của sự sống, con người lần lần liên kết lại với nhau và trong những mối tương quan ấy xẩy ra những xung đột, giết chóc lẫn nhau. Tính tốt của con người tự nhiên mất lần và nhường chỗ cho độc ác.

Để chấm dứt sự xâu xé đau khổ này, Rousseau chủ trương tổ chức lại xã hội và trong quyển “xã hội khế ước” ông tìm cách giải thích vì sao con người từ bỏ trạng thái thiên nhiên và cố gắng tìm một nền tảng hợp lý cho xã hội loài người.

2. Dân ước

Theo Locke, vì muốn sung sướng hơn; con người thành lập xã hội. Và sự thành lập này do một sự đồng thuận của con người. Dữ kiện căn bản này nói lên sự kiện tối quan trọng: đó là sự đồng ý của dân chúng trong việc thiết lập chính quyền. Dân ước của Locke có những đặc điểm sau đây:

a. Khi thành lập khế ước, dân chúng tự nhường lại cho xã hội hai loại quyền hành mà họ nắm giữ trong trạng thái thiên nhiên. Quyền thứ nhất là quyền làm điều gì mà người ta xét là nên làm để bảo vệ tính mạng của mình và kẻ khác. Quyền thứ hai là quyền trừng phạt kẻ vi phạm luật lệ thiên nhiên. Hai quyền này – tức là quyền hành pháp và quyền lập pháp – con người nhường lại cho xã hội để đặt dưới sự điều khiển của luật pháp.

b. Dù sống chung nhau trong xã hội, con người vẫn còn giữ lại một số đặc quyền. Sự kiện mà con người nhường quyền lập pháp cho xã hội không có nghĩa là con người phải bị sự chi phối chuyên chế của xã hội mà trái lại, những quyền thiên nhiên của con người vẫn tồn tại – sau khi có khế ước – tồn tại để hạn chế quyền xã hội và bảo đảm tự do của con người. Vì cứu cánh của xã hội là bảo tồn sinh mạng, tự do và tài sản của con người, quyền lập pháp của xã hội không thể vượt hẳn mức cần dùng của công ích. Quyền lực xã hội không thể có tính cách tuyệt đối, chuyên chế đối với sinh mạng, tự do và tài sản của công dân.

c. Đặc điểm trên cho ta thấy rằng dù có khế ước, dân chúng vẫn nắm quyền tối cao trong xã hội. Họ chỉ ủy nhiệm quyền lực tối cần cho xã hội chứ không thần phục xã hội. Dân chúng vẫn giữ quyền quyết định tối hậu nếu cần. Và trong trường hợp chính quyền trở nên chuyên chế, dân có quyền nổi loạn, quyền mà Locke đặt tên là Quyền kêu gọi đến Trời.

Rousseau cũng giải thích rằng sự kiện mà con người từ bỏ tình trạng thiên nhiên để thành lập xã hội là do nơi sự thỏa thuận của con người. Ông phủ nhận võ lực là nền tảng của xã hội, vì võ lực có tính cách cưỡng bách và tạm thời. Ông cũng phủ nhận thuyết thần quyền quan niệm rằng quyền lực xã hội bắt nguồn từ Thượng đế nghĩa là Trời phú cho một người hay một triều đại nào đó uy quyền có thể bắt kẻ khác phục tùng. Bởi vậy nguồn gốc của xã hội loài người là khế ước. Và khế ước này có một điều khoản như sau:

“Mọi người chúng ta mang góp làm thành của chung tất cả cá nhân và khả năng của mình, đặt nó dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung, và tất cả chúng ta họp lại thành một tập thể để chấp nhận sự tham gia‘ của mỗi nhân viên là một phần tử bất khả phân của ‘tập thể đó.”

Như vậy, theo bản khế ước xã hội, chủ quyền sẽ giao cho một vị chủ tế: đó là ý chí chung. Danh từ ý chí chung của Rousseau có một ý nghĩa đặc biệt. Ông quan niệm rằng khi toàn dân họp lại để quyết định, thì ý chí của họ là ý chí chung và quyết định của họ chắc chắn là hợp với quyền lợi chung. Đây là định lý căn bản của tư tưởng Rousseau và chính định lý này thể hiện khái niệm dân chủ chống lại quan niệm thời trước cho rằng quyền lợi của nhà Vua trùng hợp với quyền lợi của quốc gia và ý chí của vua là ý chí của quốc gia.

Tóm lại, điều cần lưu ý là chủ nghĩa dân chủ giải thích nguồn gốc của chủ quyền bằng giả thuyết dân ước, cho chủ quyền một nguồn gốc cá nhân và khế ước.

B. AI NẮM CHỦ QUYỀN

Nguyên tắc chính đáng trong xã hội ngày nay: nguyên tắc dân chủ. Mà dân chủ tức là dân chúng tham gia chính quyền. Dân chủ tức là chủ quyền thuộc về toàn dân. Nhưng chủ quyền thường thường được quan niệm ra sao? Và hậu quả của các quan niệm ấy như thế nào? Hai vấn đề mà chúng ta lần lượt trình bày.

a. THUYẾT CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN VÀ THUYẾT CHỦ QUYỀN QUỐC DÂN

1. Thuyết chủ quyền nhân dân

Khi mà chúng ta nói rằng chủ quyền thuộc về toàn dân, ý nghĩa đầu tiên là chủ quyền của nhân dân; nghĩa là người nắm chủ quyền trong nước là nhân dân. Nhân dân ở đây được định nghĩa là tất cả các công dân, trong nước trong một thời gian nhất định. Nhân dân là tất cả đàn ông, đàn bà, già trẻ, có thể nhận ra được, có thể đếm đầu được, những cá nhân cụ thể, riêng biệt. Nếu trong một quốc gia có 1.000 công dân, thì mỗi công dân có một phần 1.000 (1/1000) chủ quyền. Mỗi công dân nắm giữ một phần nhỏ chủ quyền.

2. Thuyết chủ quyền quốc dân

Nếu trong thuyết chủ quyền nhân dân, người nắm chủ quyền là nhân dân, là những công dân cụ thể, thì trong thuyết chủ quyền quốc dân, người nắm chủ quyền là quốc dân, nghĩa là quốc gia dân tộc. Quốc dân gợi lên ý niệm một thực thể trừu tượng, khác và riêng biệt hẳn với cá nhân trong hiện tại, mà luôn cả trong quá khứ và tương lai. Vì là một thực thể trừu tượng, vì là một pháp nhân riêng biệt, quốc dân là một, chủ quyền thuộc về quốc dân không thể phân tán được.

b. HẬU QUẢ CỦA HAI THUYẾT CHỦ QUYỀN

Trên phương diện hoàn toàn lý thuyết, chọn lựa một trong hai thuyết chủ quyền là một điều tối quan trọng vì mỗi chủ thuyết phản ảnh những quan niệm riêng biệt về việc áp dụng dân chủ. Thật vậy, quyết định rằng chủ quyền thuộc về quốc dân hay nhân dân sẽ đưa đến 3 hậu quả riêng biệt sau đây:

1. Bản tính của tuyển cử

Vấn đề đặt ra là tuyển cử là một công quyền, một quyền của công dân hay là một nhiệm vụ?

Nếu chúng ta chấp nhận nguyên tắc chủ quyền về nhân dân, thì mỗi công dân – vì là một phần tử của nhân dân – phải có quyền bầu cử. Bầu cử là một quyền của mỗi công dân, vì mỗi công dân nắm lấy một phần chủ quyền. Vì quyền này không thể phủ nhận được.

Nếu chúng ta chấp nhận nguyên tắc chủ quyền thuộc về quốc dân, thì hậu quả liên hệ đến bản tính của tuyển cử hoàn toàn trái ngược.

Chủ quyền thuộc về quốc dân. Mà quốc dân, như chúng ta đã biết, là một thực thể trừu tượng khác hẳn với nhân dân trong nước. Mỗi công dân không phải là một phần tử của quốc dân. Vì thế khi công dân đi bầu cử, họ thi hành một nhiệm vụ mà tác giả của chủ quyền – quốc dân – giao phó chứ không phải sử dụng một quyền riêng của mình. Tóm lại, thuyết chủ quyền nhân dân đưa đến thuyết bầu cử một quyền; thuyết chủ quyền quốc dân đưa đến thuyết bầu cử một nhiệm vụ. Đi xa hơn nữa, vì tuyển cử là một quyền của mỗi công dân, cuộc đầu phiếu phải là một đầu phiếu phổ thông và tùy ý. Trái lại khi thi hành một nhiệm vụ được quốc dân giao phó, cuộc đầu phiếu giới hạn và bắt buộc.

Tóm lại:

  • Chủ quyền nhân dân – quyền tuyển cử: phổ thông tùy ý
  • Chủ quyền quốc dân – nhiệm vụ tuyển cử: giới hạn bắt buộc.

2. Tính chất của nền dân chủ

Chấp nhận thuyết chủ quyền nhân dân tức là quả quyết rằng tất cả các công dân, những con người cụ thể trong một quốc gia nhất định có chủ quyền và sử dụng chủ quyền. Bởi thế cho nên, lý tưởng là chính các công dân tự quyết định lấy các vấn đề liên hệ đến quốc gia. Nhưng thực tế thì không thể như thế được. Bầu đại diện là một điều cần thiết. Nhưng là một điều bất đắc dĩ. Công dân không thể nào luôn luôn chăm lo việc nước. Vì thế mà thuyết chủ quyền nhân dân chủ trương rằng để giảm bớt vai trò của đại diện – một điều bất đắc dĩ, vì đáng lý chính các công dân phải định đoạt lấy mỗi khi cần và nếu có thể được nên tham khảo ý dân một cách trực tiếp. Thuyết chủ quyền nhân dân chủ trương áp dụng càng nhiều càng hay những phương pháp thực hiện ý chí nhân dân ví dụ như trưng cầu dân ý.

Trái lại trong thuyết chủ quyền quốc dân, quốc dân – vì là một thực thể trừu tượng – chỉ có thể phát biểu qua sự trung gian của đại diện. Quốc dân là người có chủ quyền, nhưng không thể sử dụng trực tiếp mà phải ủy thác quyền đó cho những người đại diện. Những người đại diện này – nghị sĩ hay dân biểu – nói lên tiếng nói của quốc gia, chính họ và tự họ biểu hiện ý chí quốc gia vì các công dân không phải là quốc gia mà cũng không phải là đại diện của quốc gia. Vì thế, thuyết chủ quyền quốc dân quan niệm việc bầu cử đại diện là một sự cần thiết thực tiễn, chứ không phải một điều bất đắc dĩ.

Tóm lại, thuyết chủ quyền nhân dân chủ trương một chế độ dân chủ bán trực trị, thuyết chủ quyền quốc dân chủ trương chế độ dân chủ đại nghị.

3. Vai trò của đại diện

Hoàn toàn khác hẳn trong thuyết chủ quyền nhân dân hay chủ quyền quốc dân. Trong thuyết chủ quyền nhân dân người ta quan niệm rằng sự ủy nhiệm quyền lực có tính cách đặc biệt hạn chế. Đặc biệt có nghĩa là các vị đại diện có sức mạnh biểu hiện ý chí của công dân; một số công dân nhất định tức là cử tri của đơn vị mình. Họ là phát ngôn viên của cử tri của họ. Hạn chế có nghĩa là vị đại diện bắt buộc phải thực hiện những gì đã cam kết với nhân dân khi ra tranh cử. Ví dụ khi biểu quyết ở Quốc hội, các vị đại diện phải biểu quyết theo chiều hướng mà họ đã tuyên bố với cử tri. Tóm lại, vị đại diện chịu mệnh lệnh của cử tri. Tính cách đặc biệt và hạn chế của việc ủy nhiệm cho chúng ta thấy rằng thuyết chủ quyền nhân dân quan niệm rằng giữa đại diện và cử tri có một khế ước rõ rệt, theo đó, vị đại diện phải thi hành những cam kết được ấn định đối với cử tri.

Trái lại, trong thuyết chủ quyền quốc dân, người ta quan niệm rằng không có một sự liên lạc gì giữa công dân và đại diện. Tại sao? Vì đại diện là đại diện của quốc dân, một thực thể trừu tượng, một pháp nhân riêng biệt khác hẳn công dân. Dân biểu hay nghị sĩ là đại diện của toàn thể quốc dân chứ không phải của một nhóm cử tri, của một tỉnh hay một đơn vị nào. Và toàn thể đại diện biểu dương cho ý chí của dân tộc, của quốc dân. Thuyết chủ quyền quốc dân chủ trương rằng giữa đại diện và nhân dân không có một khế ước nào mà đại diện bắt buộc phải thi hành và chịu mệnh lệnh. Đại diện một khi được bầu cử, đại diện cho toàn dân và tự do phát biểu ý kiến trong Quốc hội. Sự ủy quyền có tính cách tổng quát nhưng không phải đặc biệt và hạn chế như trong thuyết chủ quyền nhân dân. Tóm lại:

  • Độc lập về nguyên tắc của đại diện đối với cử tri
  • Không có liên lạc pháp lý giữa một dân biểu và đơn vị bầu cử của vị đó.

C. NHẬN XÉT VỀ HAI LÝ THUYẾT TRÊN

Hai lý thuyết – chủ quyền nhân dân và chủ quyền quốc dân – mà chúng ta vừa phân tích nội dung cùng hậu quả liên hệ, lẽ dĩ nhiên không một lý thuyết nào phản ảnh thực tại chính trị, vì đó chỉ là lý thuyết có một lịch sử của nó và có một tác dụng nhất thời.

Thuyết chủ quyền quốc dân – chẳng hạn – thuộc về huyền học, cho rằng có một pháp nhân riêng biệt, một con người trừu tượng gọi là quốc dân là tác giả của chủ quyền hoàn toàn là một chuyện hoang đường, giả định. Tuy nhiên thuyết chủ quyền quốc dân có một tác dụng liên hệ đến lịch sử chính trị Pháp Quốc. Các nhà Cách mạng Pháp năm 1789, thuộc về giai cấp trung lưu – đã đề xướng thuyết này một mặt nhằm mục tiêu loại hẳn nhà vua khỏi chính quyền, cho rằng quốc dân là tác giả của chủ quyền thì đương nhiên đạp đổ chế độ quân chủ. Mặt khác, khi đề xướng thuyết này giai cấp trung lưu đương thời nhằm chiếm độc quyền chính trị. Thật vậy, cho rằng quốc dân chỉ có thể biểu lộ ý chí qua sự trung gian của đại diện giai cấp trung lưu chắc chắn rằng đại diện ấy chỉ là người của họ vì chỉ có họ mới đủ khả năng về vật chất cũng như tinh thần để đề cử người đại diện.

Thuyết chủ quyền nhân dân cũng không lấy gì thực tế cho lắm. Thuyết này quên rằng văn minh trong xã hội cận đại phải dựa trên nguyên tắc phân chia nhiệm vụ. Không thể nào mà công dân trong một quốc gia thực sự và trực tiếp tự mình cai trị lấy mình. Không thể nào có giữa công dân và đại diện cái khế ước nào đó với những chỉ thị rõ rệt vì một lẽ giản dị là một chương trình ứng cử luôn luôn bao gồm những đường lối đại cương, còn việc quyết định phải luôn luôn đáp ứng với nhu cầu thiết thực và thay đổi mỗi ngày. Hơn nữa, nếu bất cứ cái gì cũng chờ về hỏi chỉ thị của cử tri thì không bao giờ chính quyền có thể làm việc được.

Còn về việc bản tính của tuyển cử – tuyển cử là một quyền hay một nhiệm vụ – đầu phiếu phổ thông, hạn chế, tùy ý hay bắt buộc, thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng chế độ phổ thông đầu phiếu đã trở thành một qui luật dĩ nhiên, quá thông thường, dù cho chúng ta áp dụng chủ quyền nhân dân hay quốc dân. Đầu phiếu hạn chế đã trở thành quá lạc hậu.

Tóm lại, sự khác biệt giữa chủ quyền nhân dân và quốc dân có tính cách hoàn toàn lý thuyết[iv] và chỉ có giá trị trên phương diện lý luận.

Vấn đề dân chủ là một vấn đề phức tạp. Tất cả vấn đề là đặt một hệ thống theo đó, toàn thể công dân có thể chịu một giải pháp nhất định – và một khi giải pháp được chọn xong – giao cho những cơ quan chính quyền thực hiện giải pháp đó.

Dân chủ không liên hệ gì đến con người trừu tượng, thần bí mà người ta gọi là quốc dân trong lúc đó chính những công dân cụ thể mới là thực tế và phải chú ý. Dân chủ cũng không có nghĩa là dân chúng bất cứ lúc nào và trong trường hợp nào, phải định hoạt lấy số mệnh của mình theo ý mình.

Chúng ta cần luôn luôn ý thức điều tối quan trọng này.

Mục III: ĐẠI CƯƠNG VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Đoạn 2: PHÂN LOẠI CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Đoạn 3 : CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ VÀ KHÔNG DÂN CHỦ

Đoạn 4 : NHỮNG HÌNH THỨC DÂN CHỦ

Khái niệm chế độ chính trị có một nội dung rất là phong phú và vượt hẳn khuôn khổ của một hệ thống có hiến tính. Một hệ thống có hiến tính – tức là hệ thống bao gồm các qui luật về tổ chức chính quyền. Các qui luật này đành rằng là những nguyên tắc tối quan trọng cho cuộc sinh hoạt nhưng không phải luôn luôn có tính cách quyết định.

Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH-TRỊ

Thế nào là một chế độ chính trị? Chúng ta sẽ lần lượt trình bày định chế và chế độ chính trị.

A. ĐỊNH CHẾ CHÍNH TRỊ

Bất cứ một quốc gia nào cũng có một số định chế. Các định chế này – thường được gọi là “bộ máy chính quyền” – có tác dụng bảo đảm việc thống trị quốc gia, việc hành xử các công tác chính yếu trong quốc gia, là định chế chính trị. Danh từ định chế chính trị bao gồm một số cá nhân hay hội đồng được giao phó nhiệm vụ điều khiển, cá nhân hay hội đồng được chọn lựa và phải hành động theo những quy tắc ấn định và hợp thành một hệ thống liên tục và lâu dài. Cũng được xem là định chế chính trị, một số quy tắc về thể thức ấn định cách chiếm và hành xử chính quyền. Các định chế chính trị hoàn toàn khác biệt từ xứ này qua xứ khác và ngay trong một quốc gia tùy theo giai đoạn lịch sử.

B. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Nói đến chế độ chính trị là nghĩ ngay đến bản chất, sự phối hợp cùng mối tương quan của những định chế chính trị, đến những nguyên tắc tinh thần chi phối và hướng dẫn các định chế ấy, đến khung cảnh tổng quát trong ấy các định chế được điều hành.

Theo nghĩa rộng, chế độ chính trị quy định sự phân biệt và mối tương quan giữa quyền thống trị và kẻ bị trị. Theo nghĩa hẹp, chế độ chính trị tức là cơ cấu chính quyền của một quốc gia.

Dù sao, nghiên cứu một chế độ chính trị tức là khảo sát một tổ chức và một sự chuyển động. Khảo sát một tổ chức là nghiên cứu những định chế được phối hợp như thế nào, thẩm quyền cùng thể thức hành động của các định chế ấy ra sao. Khảo sát một sự chuyển động tức là xem xét bước tiến của các định chế chính trị, thực tế của cuộc sinh hoạt chính trị cùng chiều hướng tiến triển của chế độ.

Một chế độ chính trị, ngoài hệ thống pháp lý, còn bao gồm nhiều yếu tố khác nữa, ví dụ như sự thực hành chính trị, những tư tưởng hay tin tưởng chính trị, cũng như những cơ cấu chính trị cụ thể (chế độ chính đảng, hay đoàn thể áp lực)

Chế độ chính trị có tính cách tập họp. Người ta có thể nói rằng trong một chế độ chính trị, lẫn lộn cùng nhau, cùng nhau điều hòa những giá trị, những cơ cấu và những kỹ thuật pháp lý.

a. Giá trị: một hệ thống giá trị: quan niệm về con người về vũ trụ dù rằng không hoàn hảo, có tính cách tương phản, hệ thống giá trị luôn luôn là nền tảng của một chế độ chính trị.

b. Cơ cấu: những gì còn lại, ở một hoàn cảnh xã hội, trong một quốc gia nhất định, trong khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu lịch sử, địa dư, tôn-giáo, tinh thần,…

c. Kỹ thuật pháp lý: quy tắc pháp luật và nhất là một Hiến pháp quy định nguyên tắc căn bản về tổ chức chính quyền quốc gia.

Định nghĩa chế độ chính trị ở đây sâu và rộng.

Đoạn 2: PHÂN LOẠI CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Làm thế nào để phân loại các chế độ chính trị? Người ta có thể đứng trên nhiều phương diện để sắp xếp các chế độ chính trị. Tuy nhiên, trước hết cần phải ý thức một điều căn bản sau đây :

Một cộng đồng chính trị, một quốc gia không thể nào tồn tại được nếu không có uy quyền hay quyền lực của những nhà lãnh đạo. Trong lúc đó, công dân trong một quốc gia, trái lại, mong mỏi hay đòi hỏi một tự do tối đa. Chế độ chính trị, chung qui chính là những giải pháp cho một vấn đề căn bản, vấn đề ấy là sự đối lập giữa uy quyền và tự do. Lịch sử chính trị nhân loại phản ảnh một phần lớn mối tương tranh này. Tùy theo mức độ ý thức chính trị của công dân, tùy theo giai đoạn lịch sử, các chế độ chính trị hoặc nghiêng về uy quyền, hoặc nghiêng về tự do.

Một khi đã ý thức tư tưởng tổng quát này, chúng ta có thể dựa vào hai tiêu chuẩn phân loại các chế độ chính trị: hình thức, thực chất.

A. TIÊU CHUẨN HÌNH THỨC

Ở đây chúng ta dựa vào khung cảnh tổng quát, trong ấy các định chế chính trị được tổ chức và điều hành. Đứng trên quan điểm này, chế độ chính trị có thể phân ra: chế độ quân chủ, chế độ thiểu số, chế độ cộng hòa. Có chế độ quân chủ khi nào trong một quốc gia nhất định, quyền lực tối cao được giao phó cho một nhân vật chỉ định bởi những nguyên tắc thừa kế (quốc vương, đế vương). Chế độ thiểu số tức là chế độ trong ấy một thiểu số, một thành phần xã hội thu hẹp nắm trọn quyền lãnh đạo. Còn chế độ cộng hòa, chúng ta có thể định nghĩa một cách đơn giản: chế độ cộng hòa có trong quốc gia nào không có vị quốc vương.

B. TIÊU CHUẨN THỰC CHẤT

Tiêu chuẩn thực chất, tức là những nguyên tắc điều hành hướng dẫn cuộc sinh hoạt chính trị của chế độ. Ở đây chúng ta có thể phân biệt: chế độ pháp trị và chế độ chuyên chế; chế độ tự do và chế độ quyền uy; chế độ thực tế và chế độ có căn bản pháp lý.

1. Chế độ pháp trị và chế độ chuyên chế

Các chế độ chính trị được xem là chế độ pháp trị hay chế độ chuyên chế tùy thuộc hành động của nhà cầm quyền có bị giới hạn hay không trong khuôn khổ của luật pháp. Luật pháp là ý chí chung của toàn dân và chi phối – không phải chỉ có kẻ bị trị – luôn cả nhà cầm quyền: đó là nguyên tắc căn bản. Khi mà chính quyền định đoạt về tính mạng cùng tài sản của công dân, khi mà chính quyền có thể bắt bớ, giam cầm không xét xử, hoặc lên án khổ sai bằng những quyết định hành chính lờ mờ, khi mà luật lệ được biểu quyết bởi những nghị viên bù nhìn, hoặc bị đe dọa, thì chế độ chính trị không còn là chế độ pháp trị mà trái lại trở thành chế độ công an, mật vụ, nghĩa là một chế độ hoàn toàn chuyên chế.

2. Chế độ tự do và chế độ quyền uy

Một chế độ chính trị được xem là tự do khi mà nhà cầm quyền do chính công dân chọn lựa một cách tự do và một số tự do căn bản được nhìn nhận và bảo đảm thực sự cho công dân đối với chính quyền. Trái lại, trong chế độ quyền uy, công việc chỉ định nhà lãnh đạo một phần lớn không do ý chí của toàn dân và trong khi hành xử, chính quyền, nhà lãnh đạo được hưởng một tự do khá quan trọng.

Sự phân biệt này khá tế nhị, và có thể so sánh với các chế độ trên. Một chế độ quyền uy đồng thời có thể là một chế độ pháp trị, nghĩa là chính quyền vẫn được hành xử trong khung cảnh luật pháp và không vi phạm trắng trợn đến tự do căn bản cá nhân của công dân. Trái lại, một chế độ tự do có thể tạm thời trở thành quyền uy nhưng không chuyên chế, với những tình trạng khẩn cấp, giới nghiêm và quyền ban hành sắc luật của hành pháp v.v…

Các chế độ tự do thường được phát sinh sau cuộc cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ quyền uy thường nối tiếp chế độ tự do sau những cuộc thất bại quân sự, khủng hoảng chính trị, kinh tế trầm trọng.

3. Chế độ thực tế và chế độ pháp lý

Chế độ thực tế là chế độ chính trị xuất hiện sau một biến cố chính trị và chưa được dân chúng thừa nhận bởi những cuộc tuyển cử hay trưng cầu dân ý. Chế độ thực tế trở thành chế độ pháp lý sau khi đã chứng tỏ uy quyền và được công dân tín nhiệm. Chế độ pháp lý thường khởi sự bằng chế độ thực tế sau khi một chế độ pháp lý trước bị sụp đổ. Tuy nhiên không phải bất cứ chế độ thực tế nào cũng trở thành chế độ pháp lý. Nhiều chế độ thực tế chỉ có tánh cách tạm thời và phải nhường chỗ cho chế độ khác. Có thể chế độ pháp lý tiếp nối một chế độ pháp lý trước sau khi chính quyền được chuyển lại một cách bình thường và theo thể thức ấn định bởi Hiến pháp.

Trong chế độ thực tế, cơ cấu chính quyền không được hoàn hảo bằng các chế độ pháp lý. Và tùy theo khuynh hướng của các biến cố chính trị, các chế độ thực tế có thể là chế độ tự do hay chế độ quyền uy sau khi chế độ trước bị sụp đổ.

Đoạn 3: CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ VÀ KHÔNG DÂN CHỦ

A. Ngày nay như chúng ta đã biết, nguyên tắc dân chủ được tuyên bố khắp nơi và không một nước nào phủ nhận nguyên tắc dân chủ. Để có một ý niệm về những chế độ không dân chủ, chúng ta sẽ dò lại lịch sử. Và lịch sử chứng minh rằng đã có những chế độ, chẳng những không dân chủ mà còn tự hào là dân chủ.

* Loại thứ nhất của chế độ không dân chủ, chúng ta tìm thấy nơi chính thể quân chủ chuyên chế ngày xưa. Là một chính thể trong ấy căn nguyên của chủ quyền ở chính bản thân của nhà vua hoặc nơi gia tộc vì tất cả quyền lợi đều tập trung trong tay họ.

* Loại thứ hai: chế độ thiểu số: chế độ dành chủ quyền cùng việc hành xử chủ quyền cho một loại công dân nào đó: Ví dụ như công dân sinh trưởng trong gia đình quí tộc hoặc công dân đủ sức đóng góp ít nhiều tiền bạc. Tóm lại loại công dân hội đủ các điều kiện về sinh sản hoặc tiền bạc.

B. Có những chế độ tự hào rằng dân chủ nhưng thật ra không dân chủ chút nào: đó là những chế độ mà người ta gọi là độc tài. Chế độ độc tài có 3 đặc điểm :

* Trong chế độ độc tài, tất cả quyền hành đều tập trung vào tay một người hay một nhóm người dưới quyền điều khiển của một người.

* Nguồn gốc của chế độ độc tài có thể là một sự đồng ý của nhân dân. Sự đồng ý này hoặc đạt được trong những điều kiện thường xuyên hoặc bị cướp lấy, nghĩa là trong những điều kiện mờ ám (như gian-lận bầu cử). Nhưng dù có sự đồng ý thật sự của nhân dân, đặc điểm của chế độ độc tài là tổ chức thế nào để cho sự đồng ý đó không thể bị rút lại (Trường hợp Ngô Đình Diệm).

* Nhà độc tài sớm muộn gì cũng đi đến việc đàn áp, thủ tiêu đối lập, hạn chế tự do công cộng và có những biện pháp hành động có tính cách đàn áp.

Chế độ độc tài là một chế độ chính trị đã có từ nghìn xưa, nhất là ở thời thượng cổ. César ở Âu Châu, Tần Thủy Hoàng ở Á Đông là những nhân vật điển hình. Gần đây một hình thức mới của chế độ độc tài đã được áp dụng xuyên qua những chế độ phát-xít ở Đức Quốc, ở Ý Đại Lợi và Mác-xít ở Nga-Sô. Đặc điểm của những hình thức mới đấy là đảng cùng mật vụ và tuyên truyền chiếm một địa vị tối quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị.

Thường thường chế độ độc tài kiểu mới này tự hô hào chế độ mình có tính cách dân chủ và dân chủ hơn các chế độ dân chủ khác. Nhưng nhìn kỹ đó chỉ là tuyên truyền và dân chủ giả hiệu vì:

  • Sự đồng ý của nhân dân luôn luôn bị cướp giật
  • Chính quyền tổ chức khôn khéo để tránh tất cả mọi kiểm soát của quốc dân và đại diện.
  • Và nhất là, một khi mà chủ mà mời khách vào rồi, khách ngồi ỳ ở đó và không đuổi ra được.

Trong chế độ dân chủ, cuộc đấu tranh chính trị được diễn ra một cách công khai và tự do. Người ta có thể quả quyết rằng, chỉ trong chế độ dân chủ mới có cuộc sinh hoạt chính trị: Thường thường có ít nhất là hai đảng nếu không nhiều hơn. Chế độ dân chủ thường được mệnh danh là chế độ đa nguyên. Cuộc đấu tranh chính trị có tính cách công khai và những phương tiện (tự do phát biểu, tự do ngôn luận v.v…) hậu thuẫn của sự tranh đấu thường được bảo đảm.

Trái lại, trong chế độ độc tài, không có cuộc đấu tranh chính trị. Và nếu có, thì sự đấu tranh chỉ có hình thức phe nhóm chống nhau để được lòng tin của nhà độc tài. Không có vấn đề phủ nhận chế độ, chính sách hay chính nhà độc tài.

C. NHẬN XÉT VỀ CỘNG HÒA VÀ DÂN CHỦ

Một chế độ được xem là dân chủ là một chế độ trong ấy, trên phương diện pháp lý cũng như trong thực tế, chủ quyền thuộc về toàn dân. Một chế độ được gọi là cộng hòa là một chế độ trong ấy không một nhà cầm quyền nào được chỉ định theo nguyên tắc thừa kế. Chế độ cộng hòa chống lại chính thể quân chủ thế tập.

Một chế độ dân chủ – trên phương diện luận lý – đương nhiên là một chế độ cộng hòa. Vì dân chủ là dân nắm chủ quyền và tham gia vào việc điều hành guồng máy quốc gia. Tuy nhiên thực tại chính trị cũng cho chúng ta biết rằng có những xứ dân chủ và đồng thời là những chính thể quân chủ. Ví dụ Anh Quốc, Thụy Điển, Hòa Lan, Nhật Bản v.v… Sự thật không có gì mâu thuẫn. Các vị vua chúa này không còn một thực quyền gì cả và chỉ đóng vai trò tượng trưng, chỉ là biểu hiện quốc gia. Cơ quan được thiết lập theo nguyên tắc thừa kế đó không nắm chính quyền thật sự và vì thế không ảnh hưởng gì đến việc điều hành dân chủ.

Dù sao cộng hòa và dân chủ là hai danh từ hoàn toàn độc lập. Những chế độ dân chủ đồng thời là những chính thể cộng hòa có thể nói là đa số.

Nhưng có những chính thể quân chủ – nghĩa là không cộng hòa – không dân chủ. Trái lại có những chính thể cộng hòa dân chủ và chính thể cộng hòa không dân chủ (độc tài).

Đoạn 4: NHỮNG HÌNH THỨC DÂN CHỦ

Ở đây chúng ta đứng trong một chế độ dân chủ mà quan sát. Nếu ý tưởng chỉ đạo của dân chủ là sự tham gia của dân chúng vào chính quyền, ý tưởng ấy có thể thực hiện bởi hình thức khác nhau và trên phương diện hoàn toàn lý thuyết, chúng ta có thể phân biệt 3 loại: dân chủ trực trị, dân chủ đại nghị, bán trực trị.

A. DÂN CHỦ TRỰC TRỊ

Chế độ dân chủ trực trị, nghĩa là chế độ dân trực tiếp cai trị, là chế độ trong ấy, nhân dân vừa nắm chủ quyền vừa hành xử chủ quyền. Nói một cách khác, nhân dân điều khiển thẳng việc nước. Như vậy, theo đúng tinh thần của dân chủ trực trị, không có sự phân biệt giữa nhà cầm quyền và người dân phải vâng phục. Vì chính dân là nhà cầm quyền.

Chế độ dân chủ trực trị là một chế độ dân chủ toàn diện, chế độ lý tưởng và như thế mới là dân chủ thực sự. Chính mình tự quyết định trên nguyên tắc, bao giờ cũng hay hơn là ủy thác cho kẻ khác quyết định thay mình. Vì ủy quyền thường thường là hủy bỏ quyền vậy.

Tuy nhiên trong mọi lãnh vực, lý tưởng bao giờ cũng khó mà đạt trên thế gian này. Nhất nhất chuyện gì – dù cho nhỏ đến đâu – có liên hệ đến tổ chức và điều hành chính quyền – cũng phải họp lại tất cả công dân để lấy quyết định, đó là một việc khó mà thực hiện được.

Dân chủ trực trị có thể thực hiện trong những nước rất nhỏ, khi số công dân rất ít. Ví dụ ở thời thượng cổ, Hy Lạp đã áp dụng một phần nào dân chủ trực trị, khi mà tại Athènes, hằng ngày công dân tự do hội họp, thảo luận và quyết định việc công. Ví dụ như ngày nay, trong một vài Tổng ở Thụy Sỹ, không có hội nghị dân cử. Thỉnh thoảng công dân họp lại để lấy những quyết định trọng đại căn bản liên hệ đến Tổng mình.

Dù sao, đó chỉ là kỳ vật của lịch sử. Chế độ dân chủ trực trị – dù là lý tưởng nhưng không thực tế và không phù hợp với xã hội văn minh đông đúc ngày nay.

B. DÂN CHỦ ĐẠI NGHỊ

Trong chế độ dân chủ đại nghị, thì trái lại, nhân dân nắm chủ quyền, nhưng không hành xử trực tiếp chủ quyền mà ủy thác chủ quyền cho những người đại diện quyết định thay mình. Vai trò của nhân dân – trong chế độ đại nghị – chỉ còn là bầu các vị đại diện ấy theo một định kỳ nhất-định. Ngoài ra, không tham dự trực tiếp vào quốc gia đại sự. Về việc nước sẽ do những người đại diện quốc dân điều khiển, người ta thấy rõ có một sự phân biệt giữa nhà cầm quyền – tức là những người được ủy thác chủ quyền – và những người bị trị.

C. DÂN CHỦ BÁN TRỰC TRỊ

Là một chế độ chiết trung, dung hòa hai hình thức trực trị và đại nghị. Trong chế độ dân chủ bán trực trị vừa có cơ quan đại diện mà vừa có những quyết định do chính nhân dân tự lấy. Nói một cách khác, thường thường việc điều khiển guồng máy quốc gia do cơ quan đại diện dân cử đảm nhiệm và chính những cơ quan này toàn quyền quyết định. Nhưng thỉnh thoảng, trong vài trường hợp đặc biệt, một vài quyết định quan trọng lại được giao phó lại cho nhân dân. Nhân dân tham dự trực tiếp một phần nào vào quốc sự. Trong lúc với nền dân chủ đại nghị ý chí của đại diện được xem là ý chí của quốc dân không thể chối cãi được, với nền dân chủ bán trực trị, nhân dân có dịp phủ nhận ý chí của đại diện mình, vì ở đây, công dân không phải chỉ biết bầu và đôi khi lại quyết định nữa. Và sự tham gia trực tiếp này được thể hiện qua những phương pháp sau đây:

a. Trưng cầu dân ý

Tức là thỉnh cầu ý dân. Tùy theo quan niệm của mỗi xứ phương pháp trưng cầu dân ý được áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau, với tính cách và điều kiện khác nhau.

  • Trước nhất, trưng cầu dân ý có thể được áp dụng cho việc lập hiến (khi thiết lập Hiến pháp) cho việc lập pháp hay cho một cải cách chánh trị quan trọng nào.
  • Điểm thứ hai: Trưng cầu dân ý có thể có tính cách tùy ý hay bắt buộc. Về một vấn đề nào đó, có thể ấn định rằng phải có sự trưng cầu dân ý hoặc có thể ấn định rằng việc đem ra trưng cầu dân ý tùy thuộc ở một cơ quan nào đó (hành pháp hay lập pháp).
  • Điểm thứ ba: trưng cầu dân ý có thể có tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trực tiếp tức là vấn đề được đưa ngay ra hỏi ý dân chứ không phải qua một cơ quan nào. Gián tiếp tức là trước khi trưng cầu dân ý, vấn đề đó phải được một cơ quan quyết định trước.

Đó là tính cách cùng điều kiện khác nhau về việc áp dụng trưng cầu dân ý. Phương pháp trưng cầu dân ý là một phương pháp quan trọng trong việc thực thi dân chủ. Tuy nhiên để có thể áp dụng phương pháp có hữu hiệu, chúng ta cần lưu ý hai điểm chính sau đây:

  • Trưng cầu dân ý biểu lộ sự tham gia trực tiếp của công dân vào những quyết định quan trọng của quốc gia. Ở đây, chính nhân dân là tác giả thật sự của một quyết định, vì một sự cải cách hay một đạo luật chỉ có hiệu lực và đem ra thi hành khi nào nhân dân biểu quyết chấp thuận.
  • Trưng cầu dân ý chỉ có giá trị và đồng thời là một phương pháp dân chủ khi nào những kẻ sử dụng không làm sai lạc ý nghĩa. Chúng ta có thể nói rằng có hai điều kiện cần phải có để cho trưng cầu dân ý giữ được tính chất dân chủ của nó:
  1. Vấn đề đặt ra cho dân chúng phải là một vấn đề nội dung, chứ không nên là một vấn đề con người. Nhân dân được thỉnh ý về một vấn đề như thế này, với những nguyên tắc và hậu quả như vậy. Một vấn đề có thể hết sức khó khăn, rõ ràng.
  2. Quyền đem một vấn đề trưng cầu dân ý không nên là một độc quyền của một cơ quan chính trị. Hoặc trưng cầu dân ý có tính cách bó buộc, đương nhiên phải có, chiểu theo Hiến pháp, hoặc trong trường hợp tùy ý, nên giao cho vài cơ quan công quyền, chứ đừng có độc quyền. Trưng cầu dân ý sẽ là một khí cụ sắc bén của cơ quan nào có độc quyền sử dụng vì cơ quan này có thể đặt vấn đề nào mà họ thích và lúc nào họ muốn. Và kinh nghiệm cho biết rằng quần chúng luôn luôn trả lời chấp nhận nếu người ta hỏi ý kiến họ về một vấn đề hay và trong lúc thuận tiện

b. Quyền đề nghị của nhân dân

Ở đây nhân dân đóng vai trò chủ động. Chính nhân dân có sáng kiến sửa đổi một đạo luật hay vài điều khoản của Hiến pháp. Sáng kiến này thường được trình bày dưới hình thức một kiến nghị, hội đủ một số tối thiểu chữ ký. Kiến nghị này được chuyển đạt đến chính quyền – ví dụ Quốc hội – bắt buộc phải thảo luận và biểu quyết về dự án luật đề nghị trong bản kiến nghị ấy. Với quyền đề nghị này nhân dân hay nói đúng hơn một số công dân – có thể, hoặc chuyển đến chính quyền một dự án luật rõ rệt hoặc chỉ ấn định vài nguyên tắc chỉ đạo, những nguyện vọng của mình hầu chính quyền lưu ý giải quyết hay cải cách. Ở đây, như chúng ta đã nói – công dân đóng vai trò chủ động. Chính họ có sáng kiến, họ đi trước chính quyền và hướng hoạt động của chính quyền theo nguyện vọng của mình.

c. Quyền bác bỏ của nhân dân

Ở đây nhân dân không có sáng kiến, nhưng giành lại cái quyền không bằng lòng. Quyền phủ quyết tức là quyền phản đối. Thể thức quyền phản đối là như thế này: Trong đạo luật, một số công dân có quyền yêu cầu đem đạo luật ấy ra hỏi ý kiến dân. Nếu đa số công dân phản đối thì đạo luật ấy đương nhiên bị bãi bỏ. Trái lại, nếu trong thời hạn ấn định đó, nhân dân không đòi sử dụng quyền phủ quyết, thì đạo luật ấy đương nhiên có hiệu lực rồi được xem như đã được dân chúng chấp thuận, vì im lặng tức là tán thành.

d. Quyền bãi chức hay giải tán của nhân dân

Với quyền này, công dân có thể bãi chức đại diện của mình hay giải tán một hội đồng trước nhiệm kỳ. Một kiến nghị gồm một số chữ ký được ấn định đòi bãi chức một vị đại diện hoặc giải tán một cơ quan mà họ bất tín nhiệm. Rồi công dân họp lại, biểu quyết. Nếu đa số chấp thuận, vị đại diện hay cơ quan liên hệ sẽ bị bãi chức hay giải tán.

Thụy Sỹ và Hoa Kỳ là hai quốc gia áp dụng nhiều nhất về dân chủ bán trực trị.

Trưng cầu dân ý, quyền đề nghị của nhân dân, quyền phủ quyết và quyền bãi chức hay giải tán của nhân dân đó là những phương pháp thực hiện nền dân chủ bán trực trị.

(Hết thiên thứ nhất Những khái niệm và nguyên tắc căn bản trong phần thứ nhất Lý thuyết đại cương)

(Còn tiếp)

Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.


[i] Alexei Kosygin (1904-1980): Nhà lãnh đạo Xô-viết, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô 1964-1980 (p&c)

[ii] Nguyên văn viết theo cách đương thời: Soekarno (p&c)

[iii] Nhan đề nguyên gốc Anh ngữ: Two Treatises of Governement (p&c)

[iv] Nguyên văn: “hoàn lý thuyết” (p&c)

 

 

 

Categories: Tư liệu

Tags: