Tác giả

Danh mục

Trang

Nhân ngày mất của Rosa Luxemburg (1871 – 1919): Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiến

Th1 15, 2014

Phạm Hải Hồ

Trên bia mộ cũng như trong cuộc đời tôi không có những sáo ngữ huênh hoang. Trên bia mộ tôi chỉ được để hai vần “chuy chuyˮ. Đó là tiếng chim sơn tước đầu đen tôi bắt chước hay đến nỗi nó đến ngay khi nghe tôi gọi. Bạn thử nghĩ xem, mấy ngày nay trong tiếng chuy chuy bình thường lóe lên như ánh kim ấy có một âm rung nho nhỏ, một giọng ngực tí ti. Bạn biết điều ấy có nghĩa gì không? Đó là những chuyển động nhẹ đầu tiên của mùa xuân sắp tới. Bất chấp tuyết giá và nỗi cô đơn, chúng tôi − chim sơn tước đầu đen và tôi – vẫn tin tưởng ở mùa xuân sắp tới. Và nếu vì thiếu kiên nhẫn tôi không còn chứng kiến nó nữa thì bạn đừng quên trên bia mộ tôi không để gì khác hơn hai vần “chuy chuyˮ thôi nhé. [i]

Berlin một tối mùa đông…

Nằm đối diện vườn Bách thú, khách sạn Vườn Địa đàng sang trọng là nơi sư đoàn Xạ thủ – Kỵ binh – Cận vệ chiếm đóng và đặt tổng hành dinh hồi sáng này. Người ta chưa qua cơn sốt về việc Karl Liebknecht, chủ tịch Đảng Cộng sản Đức mới thành lập vừa bị áp giải đến thì chẳng bao lâu, một toán dân phòng mang súng trường 98 rầm rập bước vào, kèm theo một phụ nữ xấp xỉ năm mươi và một người đàn ông trẻ hơn chị vài tuổi. Chị phụ nữ có thân hình nhỏ thó và bước chân hơi khập khiễng. Đôi mắt thâm quầng, gương mặt mệt mỏi biểu lộ lòng khoan dung pha lẫn tính cương quyết không nhân nhượng.

Những sĩ quan và khách trọ có mặt ở tiền sảnh nhìn chị trân trối, rồi một sự sôi nổi bồn chồn lan rộng trong giây lát. Đâu đây có tiếng mắng chửi hằn học:

“Mụ Rosa vấy máu!”

“Đồ phản quốc!”

Toán dân phòng giải hai người lên lầu một. Họ ra lệnh cho người đàn ông đứng yên ở một góc hành lang rồi đẩy chị phụ nữ vào một căn phòng khá rộng, nơi một sĩ quan sói đầu với cặp mắt lạnh lùng và đôi môi mỏng mím chặt đang đứng chờ chị. Đó chính là Waldemar Papst, tư lệnh sư đoàn Xạ thủ – Kỵ binh – Cận vệ. Sau khi Đức thua trận, Cách mạng tháng Mười Một bùng nổ, rồi hoàng đế Wilhelm Đệ nhị thoái vị, Pabst đã biến đổi sư đoàn “tình nguyện” ấy thành một đạo quân trang bị vũ khí nặng với bộ máy tuyên truyền – tình báo riêng biệt. Nó đóng vai trò nòng cốt trong việc đè bẹp lực lượng nổi dậy do Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg lãnh đạo.

Pabst hỏi:

“Bà có phải là Rosa Luxemburg không?”

“Ông hãy tự quyết định lấy.”

“Căn cứ vào hình chụp thì bà đúng là Rosa Luxemburg.”

Chị phụ nữ cười nhạt:

“Ông cứ cho là thế!”

Thấy không khai thác được gì thêm, Pabst ra lệnh đưa chị sang phòng làm việc của ông ta ở bên cạnh. Một chiếc mũ quân đội Phổ chĩa mũi nhọn hoắt lên trần nhà. Trước đó vài phút, cũng từ căn phòng này, sáu sĩ quan đã dẫn Liebknecht ra khỏi toà nhà. Chị phụ nữ không ai khác hơn là Rosa Luxemburg ngồi vá mấy chỗ rách ở gấu váy rồi lấy cuốn Faust của Goethe ra đọc, tuồng như không để ý đến sự hiện diện của Pabst khi ông ta bước vào phòng. Pabst bực tức trở lại căn phòng rộng, đi đi lại lại. Chợt có tiếng gõ cửa. Các sĩ quan áp giải Liebknecht trở về, báo cáo đã giết anh và giao thi hài cho trạm cấp cứu ở cách đó vài trăm mét. Pabst gật gù tỏ vẻ hài lòng. Rồi không chút do dự, ông ta ra lệnh giải Rosa đi. Trước cửa khách sạn, gã thợ săn mà một sĩ quan thuê giết hai lãnh tụ cách mạng chực sẵn, lấy trớn giáng mạnh bá súng vào đầu chị. Rosa bất tỉnh ngã sóng soài trên mặt đất, để rơi cái xách tay và một chiếc giày. Gã thợ săn lại đập chị lần nữa. Lúc ấy, toán người áp giải mới can thiệp, kéo lê người chị đẩy vào băng sau chiếc xe đậu gần đó. Cũng như lần chở Karl Liebknecht đi, một gã mặc quần áo thủy thủ cố rượt theo xe, nhảy lên bàn đạp đấm vào mặt người hắn tuồng như căm ghét. Xe chạy được vài chục mét, một tiếng súng vang lên. Người ta khiêng xác Rosa ném xuống dòng kinh Landwehr lạnh giá.

Bấy giờ gần 12 giờ đêm 15 tháng Giêng năm 1919.[ii]

Cuộc đời ấy ra sao? Người ấy từng trải những gì? Đã sống vì mục đích nào?[iii]

Rosa Luxemburg chào đời ngày 5-3-1871 (hoặc 1870) tại Zamość, một phố nhỏ thuộc vùng lãnh thổ Ba Lan chịu ách đô hộ nặng nề của Nga. Chị là con út trong một gia đình Do Thái trí thức có năm con. Chị sớm tiếp nhận từ nơi cha mẹ mình tinh thần yêu chuộng tự do cũng như lòng hâm mộ văn học nghệ thuật. Từ 1880 đến 1887 chị học tại một trường trung cấp ở Warszawa và tốt nghiệp với bằng xuất sắc.

Ngay từ lúc còn đi học, Rosa đã có những hoạt động yêu nước, bất chấp sự đàn áp đẫm máu phong trào cách mạng Ba Lan dưới chế độ Nga hoàng. Ra trường chẳng bao lâu, chị tham gia gầy dựng lại một đảng marxist đã bị chính quyền Nga phá vỡ và tổ chức nhiều cuộc đình công. Chị bị mật vụ Nga phát hiện nên phải rời Warszawa đi ẩn trốn nơi khác. Đầu năm 1889, khi vừa thoát khỏi một cơn bệnh ngặt nghèo, chị bí mật vượt biên sang Thụy Sĩ với ý định theo học đại học.

Học kỳ mùa đông 1889 – 1890, Rosa đăng ký học các môn khoa học tự nhiên ở trường Đại học Zürich khi ấy là một trong vài trường cao đẳng trên thế giới tiếp nhận nữ sinh viên. Về sau, Rosa chuyển sang học chính trị và kinh tế quốc dân. Cuối thế kỷ 19, Zürich là nơi có nhiều người tị nạn chính trị, nhất là từ Đức, Nga và Ba Lan. Trong thời gian ở Thụy Sĩ, chị có quan hệ tình cảm sâu đậm nhưng khá phức tạp với Leo Jogisches[iv], một nhà cách mạng Lithuania cũng buộc phải lưu vong như chị. Rosa vừa học tập, vừa viết bài mang tính xã luận cho tờ Sự nghiệp Công nhân ra đời năm 1893 và trở thành cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ Xã hội Vương quốc Ba Lan (DCXH Ba Lan) do Leo, Rosa và một số đồng chí Ba Lan khác thành lập trong cùng năm ấy. Giữa đảng này và Đảng Xã hội Chủ nghĩa Ba Lan (PPS) xuất hiện trước đó một năm có mâu thuẫn chủ yếu về mục tiêu: Trong khi Đảng PPS đấu tranh cho độc lập dân tộc, Đảng DCXH Ba Lan chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản Nga và Ba Lan nhằm lật đổ chế độ Nga hoàng, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn đế quốc Nga, tức là bao gồm cả các nước thuộc địa. Một tuần sau đó, Đại hội Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa (Quốc tế XHCN) họp tại Zürich với hơn 400 đại biểu từ 20 nước và nhiều nhân vật có tiếng tăm, uy tín lớn trong phong trào công nhân quốc tế như Friedrich Engels, August Bebel[v], Wilhelm Liebknecht[vi], Karl Kautsky[vii], Clara Zetkin[viii], Victor Adler[ix], Georgi Plekhanov[x], Eleanor Marx-Eveling[xi], v.v.. Người phụ nữ mới 22 tuổi ấy đã can đảm bước lên diễn đàn, đề nghị Đại hội cho hai đại biểu của đảng mình được quyền tham dự, bên cạnh các đại biểu của Đảng PPS. Lúc ấy, chưa ai biết đến Đảng DCXH Ba Lan nên đề nghị của Rosa không được chấp thuận. Năm 1897, Rosa hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ với đề tài “Phát triển công nghiệp của Ba Lanˮ nghiên cứu về quá trình công nghiệp hóa của một vùng trước kia chủ yếu sản xuất nông nghiệp trong quan hệ hữu cơ với “mẫu quốcˮ. Đó cũng là cơ sở lý luận của chị để chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Với ý muốn hoạt động ở địa bàn rộng hơn, năm 1898 Rosa rời Thụy Sĩ sang Đức, gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội Đức (DCXH Đức) là đảng lớn mạnh nhất châu Âu thời bấy giờ. Tuy là “lính mớiˮ, chị bắt tay ngay vào cuộc đấu tranh chống khuynh hướng xét lại đang ngóc đầu lên trong đảng. Tại Đại hội Quốc tế XHCN năm 1900, chị vạch rõ sự cần thiết của một phong trào quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc, chế độ quân phiệt và chính sách thuộc địa.

Trong mười năm 1904 – 1914, Rosa làm việc cho Văn phòng Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế. Trở về quê hương tham gia vào cuộc Cách mạng 1905/1906 chống chế độ Nga hoàng, chị bị bắt giam từ tháng 3 cho đến tháng 6-1906 mới được trả tự do. Rút kinh nghiệm từ cuộc cách mạng ấy, chị nhận định rằng tổng đình công là một vũ khí lợi hại của phong trào công nhân, quan trọng hơn việc đấu tranh nghị viện do lãnh đạo Đảng DCXH Đức chủ trương. Qua đó, chị được xem là người cầm đầu “cánh tảˮ trong đảng.

Tại Đại hội Quốc tế XHCN năm 1907, Rosa được giao nhiệm vụ cùng với Vladimir Lenin và Julius Martov[xii] soạn thảo đề cương chống chiến tranh của phong trào công nhân quốc tế. Từ 1907 đến 1914, chị là giáo viên trường đảng ở Berlin. Với tác phẩm chínhTích lũy tư bản (1913), Rosa giải thích chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế, đồng thời phê phán Karl Marx đã sai lầm trong lý thuyết về sự tích lũy tư bản của ông.[xiii] Ba tuần sau khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, chị lần lượt bị giam giữ trong nhiều nhà tù của Đế chế Đức cho đến khi chiến tranh chấm dứt, chỉ được tự do hai lần trong suốt thời gian đó, mỗi lần kéo dài vài tháng. Năm 1914, chị cho ra đời quyển sách nhỏ nổi tiếng với bút danh Junius phân tích nguyên nhân cuộc chiến tranh thế giới mà lãnh đạo Đảng DCXH Đức và nhóm đại biểu của đảng trong Quốc hội Đức ủng hộ. Mùa Đông 1915, chị cùng Karl Liebknecht và một số đảng viên dân chủ xã hội khác họp thành nhóm Quốc tế, tiền thân của Liên đoàn Spartakus, tổ chức sau này hợp nhất với nhiều nhóm thiên tả nhỏ hơn thành Đảng Cộng sản Đức. Cách mạng tháng Hai, rồi Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra, chị viết nhiều bài báo ủng hộ, đồng thời phê phán Lenin và Đảng Bolshevik đã duy trì quá lâu chính sách khủng bố, độc tài mà họ buộc phải thi hành trong “thời kỳ khó khăn ghê gớmˮ ban đầu. Mùa Thu 1918, Rosa tổng hợp những quan điểm của mình về Cách mạng tháng Mười Nga cũng như về một chủ nghĩa xã hội dân chủ và đầy tính nhân văn trong một bản thảo giao cho luật sư của mình là Paul Levi giữ, với ý định biên soạn một quyển sách hoàn hảo hơn trong tương lai, điều chị không thể thực hiện được. (Ba năm sau khi chị mất, Levi mới xuất bản bản thảo ấy dưới dạng sách, lấy tựa đề Cách mạng Nga.[xiv])

Sau cuộc nổi dậy của thủy thủ ở Kiel, cuộc Cách mạng tháng Mười Một lan rộng khắp nước Đức, Ủy ban Công nhân và Quân nhân được thành lập ở nhiều thành phố. Vừa mới được tự do, Rosa đã lao mình ngay vào công việc, mặc dù sức khỏe của chị sút kém rất nhiều từ khi còn ở trong tù. Chị phát hành chung với Karl Liebknecht tờ Cờ Đỏ và viết bài tuyên truyền kích động quần chúng tiếp tục làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, không dừng lại ở việc lật đổ chế độ quân chủ. Đường lối ấy của chị cũng như của Liên đoàn Spartakus không được sự ủng hộ của đa số người dân muốn trở lại đời sống bình thường sau cuộc chiến tranh tàn khốc. Cuộc “nổi dậy Spartakusˮ do Karl Liebknecht lãnh đạo được Rosa hết sức ủng hộ mặc dù chị đã thấy trước là nó sẽ thất bại. Hàng trăm chiến sĩ và thường dân bị sát hại bởi lực lượng phản cách mạng đông đảo, thiện chiến và vũ trang đến tận răng. Hai lãnh đạo cách mạng thì bị truy lùng gắt gao rồi bị giết một cách dã man.

Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiến

Rosa Luxemburg mất cách đây 95 năm. Nhưng chị vẫn còn sống mãi với những người yêu chân lý, công bằng, tự do. Quan điểm “Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiếnˮ của chị đã trở thành phương châm của phong trào đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền ở CHDC Đức cũ. Còn các chế độ toàn trị mang màu sắc leninist, stalinist, maoist v.v. thì lợi dụng cái chết của chị và Karl Liebknecht để tuyên truyền chống chủ nghĩa tư bản và các “thế lực thù địchˮ khác, bào chữa cho sự tham quyền cố vị của họ. Họ kết hợp hai nhà cách mạng Đức phê phán chế độ bolshevik với người đứng đầu chế độ này là Lenin thành một cấu trúc kỳ quặc là LLL (Lenin-Liebknecht-Luxemburg). Thật sự mục tiêu của Rosa là chủ nghĩa xã hội. Nhưng đó phải là một chủ nghĩa xã hội được quần chúng xây dựng nên với đầy đủ ý thức và trách nhiệm, chứ không phải do một đảng hay một phe nhóm độc tài chỉ định. Đó có thể là một “Mùa Xuân Prahaˮ như nhân dân Tiệp Khắc từng mong muốn nhưng bị đập tan bởi quân đội khối Hiệp ước Warszawa năm 1968. Hay các chế độ xã hội chủ nghĩa do một số nhà lãnh đạo dân cử ở châu Mỹ La-tinh thực hiện cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước mà giới quân phiệt đã kết thúc bằng bạo lực, ít nhiều với sự hỗ trợ của Mỹ. Việc các mầm mống xã hội chủ nghĩa dân chủ bị giẫm nát bởi những tên khổng lồ không đội trời chung với nhau là một bi kịch của lịch sử loài người. Có lẽ còn lớn hơn thế nữa, là bi kịch những chế độ gọi là xã hội chủ nghĩa lại độc đoán hơn cả chế độ quân chủ chuyên chế và lộng hành hơn cả tư bản độc quyền.

Trong cuộc đời sôi động, tương đối ngắn ngủi của mình, chị đã biên soạn nhiều sách và viết nhiều bài báo về kinh tế – chính trị – xã hội. Các văn bản đó cho thấy chị là một người marxist có lý luận sắc bén và lối tư duy độc lập, sáng tạo, “chưa bao giờ tôn sùng chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa marxistˮ.  Nhiều ý nghĩ của Rosa được diễn đạt rõ ràng và chính xác đến nỗi một số tác giả cho là “giống như những lời tiên triˮ, nhưng thật ra chúng chỉ phản ánh những quy luật khách quan. Chúng ta hãy thử xem vài trích đoạn từ bản thảo của chị về Cách mạng Nga và liên tưởng đến đời sống chính trị của đất nước hiện nay, gần một thế kỉ sau đó:

“Có một thực tế hiển nhiên không thể phủ nhận là nếu thiếu tự do báo chí rộng rãi, thiếu các hoạt động hội họp và lập hội không hạn chế thì khó có thể hình dung được quyền làm chủ của nhân dân.ˮ

“Cùng với sự đè nén đời sống chính trị trong cả nước, hoạt động ở các xô-viết ngày càng suy yếu hơn. Thiếu bầu cử phổ thông, thiếu tự do báo chí và hội họp rộng rãi, tự do đấu tranh tư tưởng, thì cuộc sống trong bất kỳ thể chế công nào cũng sẽ tắt lịm và trở thành giả tạo, trong đó chế độ quan liêu là yếu tố động duy nhất. Đời sống xã hội lịm dần đi, vài chục lãnh đạo đảng với năng lực vô hạn và lý tưởng cao xa nắm quyền chỉ đạo và cai trị, trong số đó chỉ một chục cái đầu xuất chúng mới thực sự lãnh đạo, còn tầng lớp công nhân ưu tú thì thỉnh thoảng được huy động đến những cuộc họp để vỗ tay tán thưởng diễn văn của lãnh đạo, nhất trí thông qua nghị quyết do họ đề ra; kỳ thực đó là chế độ bè phái – cũng chuyên chính đấy, có điều không phải là chuyên chính của giai cấp vô sản mà của một vài chính khách, tức là chuyên chính trong ý nghĩa tư sản, ý nghĩa thống trị của phái Jacobin[xv]

“Tự do dành riêng cho những người ủng hộ chính phủ hay những đảng viên của một chính đảng – cho dù họ có đông tới đâu đi nữa – cũng không phải là tự do. Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiến. Không phải bởi lòng yêu ‘công bằng’ mù quáng mà vì mọi điều hay lẽ phải, mọi đặc tính bổ ích và tẩy sạch của tự do chính trị đều gắn liền với thực thể ấy và sẽ mất tác dụng nếu ‘tự do’ trở thành đặc quyền đặc lợi.ˮ

“Nhất thiết phải có sự kiểm tra của công chúng. Nếu không, kinh nghiệm chỉ được trao đổi trong vòng khép kín của giới cán bộ của nhà nước mới. Tham nhũng – tha hóa là điều không thể tránh khỏi. […] Thực tiễn xã hội chủ nghĩa đòi hỏi cả một sự khuấy động tinh thần trong quần chúng vốn bị thoái hoá qua hàng thế kỉ thống trị của giai cấp tư sản. Bản năng xã hội thay vì thói ích kỷ; sáng kiến quần chúng thay vì tính trì trệ; lý tưởng giúp ta vượt qua mọi gian khổ v. v. và v. v. Điều ấy, không ai hiểu rõ hơn, diễn tả mạnh mẽ hơn, nhắc đi nhắc lại bền bỉ hơn Lenin. Tuy nhiên, ông lại sử dụng những phương tiện hết sức sai lầm. Sắc lệnh, quyền lực độc đoán của các đốc công nhà máy, hình phạt khắc nghiệt, chế độ khủng bố, tất cả đều là những liều thuốc giảm đau tạm thời. Con đường duy nhất dẫn tới sự hồi sinh là sự rèn luyện của chính bản thân đời sống công chúng, tự do rộng rãi không hạn chế, dư luận quần chúng. Còn chế độ khủng bố chỉ làm suy đồi đạo đức.ˮ

Là một nhà tư tưởng marxist, Rosa có nhận thức và hành động phù hợp với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chị đòi hỏi tự do tư tưởng cho người khác chính kiến không phải vì “lòng yêu công bằng mù quángˮ mà vì những tác dụng vô cùng hữu ích của nó. Bởi vì nếu trấn áp đối lập, thậm chí không cho phép đối lập tồn tại thì làm sao có sự “thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lậpˮ vốn là nguồn gốc và động lực của phát triển? Nếu cấm nhân dân biểu tình, lập hội, diễn đạt tự do, tư hữu ruộng đất v.v. và tuyển chọn nhân sự theo chủ nghĩa lý lịch, dành ưu tiên cho những kẻ cơ hội thì làm thế nào có được một mặt bằng dân trí cao với một đội ngũ lãnh đạo tài đức, có năng lực quản lý đất nước hiệu quả?

Hơn thế nữa, Rosa chủ trương quần chúng phải tự rèn luyện và nâng cao ý thức của mình qua những cuộc đình công đại chúng, những buổi học tập chính trị, những hoạt động văn hóa – xã hội v.v.. Theo cách nói hiện nay, đó là những đặc tính của một xã hội dân sự năng động, lành mạnh. Đối với chị, đảng lãnh đạo có nghĩa là tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho nhân dân, giáo dục quần chúng thật sâu sắc về chính trị, đưa ra những đề xuất để họ xem xét, quyết định và sẵn sàng chấp nhận nếu bị từ chối, chứ không phải dùng mọi cách để buộc họ phải đi theo con đường do đảng chọn.

Điều sau cùng cần nói ở đây là Rosa luôn luôn trung thành với quan điểm của mình cho đến chết, đó là: chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với tự do dân chủ và tính nhân văn. Mặc dù sau khi ra khỏi nhà tù và dấn thân vào cuộc Cách mạng Đức, chị có phần cực đoan hơn trước, nhưng ý kiến khá phổ biến cho rằng chị đã thay đổi theo đường lối và phương pháp cách mạng của Lenin bắt nguồn từ một huyền thoại.[xvi] Huyền thoại ấy đã bị bác bỏ bởi Paul Levi[xvii], người luật sư đồng hành với Rosa từ 1914 và kế thừa tư tưởng chính trị của chị, cũng như bởi những nghiên cứu gần đây[xviii]. Chính Rosa đã nhận định trong tờ Cờ Đỏ do chị phụ trách:

“Bản chất của chủ nghĩa xã hội nằm ở chỗ đông đảo quần chúng lao động chấm dứt tình trạng bị thống trị, hơn thế nữa, còn sống trọn vẹn đời sống kinh tế và chính trị, thay đổi nó với quyền tự quyết trong tự do và có ý thức.ˮ[xix]

“Chỉ có hành động cách mạng bất chấp mọi sự và lòng nhân đạo rộng lượng nhất mới thật là sinh khí của chủ nghĩa xã hội. Một chế độ phải bị lật đổ nhưng mỗi giọt nước mắt dù có thể lau khô là một lời buộc tội và kẻ nào vì vội vã công việc hệ trọng mà vô ý giẫm nát một con trùn thì cũng đã phạm tội ác.ˮ[xx]

© 2014 Phạm Hải Hồ & pro&contra


[i] Trích thư gửi Mathilde Jacobs. Những câu văn viết chữ nghiêng trong bài này là của Rosa Luxemburg được tác giả dịch từ nguyên bản tiếng Đức.

[ii] Viết theo tài liệu lịch sử, nhất là nghiên cứu của Klaus Gietinger: Eine Leiche im Landwehrkanal. Die Ermordung Rosa Luxemburgs [Một tử thi trong kênh Landwehr. Vụ sát hại Rosa Luxemburg]. Verlag 1900, Berlin 1995.

[iii] Trong thư ngày 24-6-1898 của Rosa Luxemburg gửi Leo Jogisches, đoạn nói về cái chết.

[iv] Leo Jogisches (1867-1919): nhà marxist hoạt động ở Lithuania, Ba Lan và Đức; là người yêu của Rosa Luxemburg trong một thời gian dài và có hoạt động cách mạng gắn bó với Rosa cho đến khi chị qua đời (xem chi tiết trong bài); bị ám sát ở Berlin năm 1919 trong khi tìm cách vạch trần tội ác giết Rosa và Karl Liebknecht.

[v] August Bebel (1840-1913): nhà văn, chính trị gia marxist, cùng với Wilhel Liebknecht thành lập Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Đức sau này hợp nhất với một đảng khác thành Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD).

[vi] Wilhelm Liebknecht (1826-1900): chính trị gia Đức đã kết hợp thuyết marxist với hoạt động thực tiễn hợp pháp; dưới sự lãnh đạo của ông, Đảng SPD trở thành đảng lớn nhất nước Đức; ông là cha của Karl Liebnecht.

[vii] Karl Kautsky (1854-1938): nhà báo và lý thuyết gia marxist Đức. Sau khi Friedrich Engels mất (1895) cho tới đầu Thế chiến thứ nhất, Kautsky là người truyền bá chủ nghĩa marxist có ảnh hưởng nhất. Năm 1917, ông rời Đảng SPD, gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội Độc lập (USPD), một chính đảng chống chiến tranh và chủ nghĩa xét lại. Cuối cuộc chiến, ông chỉ trích cuộc cách mạng bolshevik, tham gia luận chiến với Lenin và Trotsky về nhà nước Xô-viết.

[viii] Clara Zetkin (1857-1933): nhà marxist, đấu tranh cho nữ quyền, tổ chức ngày Quốc tế Phụ nữ đầu tiên vào năm 1911; bạn thân của Rosa Luxemburg và cũng như chị đổi từ Đảng SPD sang Liên đoàn Spartakus rồi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đức; từ 1920 đến 1933 là đại biểu của đảng này trong Quốc hội Đức.

[ix] Victor Adler (1852-1918): nhà báo, lãnh tụ phong trào công nhân Áo; năm 1888, thành lập Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội (Áo) và trở thành chủ tịch thứ nhất của đảng này; ủng hộ chính sách chiến tranh của chính quyền Áo trong Thế chiến thứ nhất.

[x] Georgi Plekhanov (1856-1918): nhà cách mạng Nga và lý thyết gia marxist; năm 1880, do chính sách đàn áp của chế độ Nga hoàng, ông buộc phải đi tị nạn ở Thụy Sĩ, nơi ông tiếp tục đấu tranh nhằm lật đổ chế độ ấy; sau Cách mạng tháng Hai Nga 1917, ông trở về quê hương; đối lập với Lenin và chính quyền Xô-viết nhưng vẫn được Đảng Cộng sản Liên Xô xem là cha đẻ của chủ nghĩa marxist Nga sau khi ông mất.

[xi] Eleanor Marx-Eveling (1855-1898): nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa, con gái út của Karl Marx, năm 16 tuổi trở thành thư ký riêng của cha bà; được Karl Marx (trước khi mất năm 1883) giao cho trách nhiệm xuất bản các bản thảo chưa hoàn tất và bản tiếng Anh quyển Tư bản của ông.

[xii] Cả hai đều thuộc Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga nhưng là đối thủ với nhau, Lenin (1870-1924) đứng đầu phái bolshevik (phái đa số), còn Martow (1873-1923) là một lãnh đạo nổi tiếng của phái menshevik (phái thiểu số).

[xiii] Michael Krätke: “Das verdrängte ökonomische Erbe”. In: Jörn Schütrumpf (Hrsg.): Rosa Luxemburg oder: Der Preis der Freiheit. 2., erg. u. überarb. Aufl. Berlin 2010.

[xiv] Rosa Luxemburg (1918): The Russian Revolution. Translated by Bertram Wolfe. marxists.org 1999.

[xv] Chế độ cai trị của phái Jacobin trong Thời kỳ Khủng bố (kéo dài từ tháng 9-1793 đến tháng 7-1794) sau Cách mạng Pháp, sát hại khoảng 41.600 “kẻ thù của cách mạng”, kể cả “cha đẻ của hóa học hiện đạiˮ Antoine Lavoisier. Chế độ này chấm dứt sau khi các lãnh tụ như Robespierre, Saint-Just bị giết.

[xvi] Nó được hai đồng chí gần gũi của Rosa là Clara Zetkin (Um Rosa Luxemburgs Stellung zur russischen Revolution. Verlag der Kommunistischen Internationale, 1922.) và Adolf Warski (Rosa Luxemburgs Stellung zu den taktischen Problemen der Revolution. Bibliothek der Kommunistischen Internationale, 1922.) tung ra trong năm 1922 sau khi Levi công bố Cách mạng Nga, có lẽ do tác động của Lenin và áp lực của Quốc tế Cộng sản mà Đảng Cộng sản Liên Xô chiếm ưu thế tuyệt đối.

[xvii] Xem: Jörn Schütrumpf: “Der Name der Rose. Der Streit um Luxemburgs Fragment “Zur russischen Revolutionˮ und eine Klarstellung von Paul Levi”. Neues Deuschland 12.01.2013

[xviii] Ottokar Luban: Problemstellungen und Tendenzen in wissenschaftlichen deutschen Rosa-Luxemburg-Publikationen nach 1990. – Verbesserte und erweiterte Fassung (22. Februar 2004). Jörn Schütrumpf: Bài đã dẫn.

[xix] Rosa Luxemburg: “Was will der Spartakusbund?” Die Rote Fahne (Berlin), Nr. 29, 14. Dezember 1918.

[xx] Rosa Luxemburg: “Der Anfang”. Die Rote Fahne, 18. November 1918.