Tác giả

Danh mục

Trang

Đĩ thúi (3)

Th5 7, 2013

Nguyễn Viện

Tiểu thuyết

Xem kì 1kì 2

8.

Nhà tù vốn là một chung cư cho nhân viên Mỹ trước 1975, được cải tạo thành trại giam. Nguyễn và Mã Kiều Nhi bị tống vào đây sau một đêm nằm trong đồn công an phường. Họ ở hai phòng khác nhau.

Chuyện kể của Nguyễn:

Tôi bị còng tay và ép ngồi giữa chiếc xe gắn máy. Nhìn phố phường nhấp nhô, tôi biết không còn mấy phút nữa những hình ảnh này sẽ thành xa ngái. Qua cổng trại giam, tôi được bàn giao cho một công an quản giáo, rồi được tháo còng. Thủ tục nhận người cũng đơn giản, tôi khai sơ qua lý lịch, nhưng đến phần lý do bị bắt thì tôi phân vân. Làm tình là một tội? Tôi viết: “Làm tình trong phòng trọ.” Mã Kiều Nhi có thể là đĩ với tất cả mọi người, nhưng với tôi thì không. Quản giáo dẫn tôi lên lầu ba. Đi hết một hành lang dài, những người tù trong phòng nhìn ra, tôi muốn mỉm cười với họ thay cho một lời chào, nhưng không nhếch mép nổi. Trước phòng cuối dãy, người quản giáo đứng lại mở cửa. Tôi bị đẩy vào. Cánh cửa nhà tù khép lại.

Tôi cúi chào mọi người. Chưa biết phải như thế nào, may mắn tôi nhìn thấy một người lớn tuổi nhất vẫy tay. Tôi bước đến và ngồi xuống bên cạnh ông ta. Mọi người nhìn tôi chăm chú. Tôi e ngại một thủ tục nhập phòng của giới giang hồ. Tôi nói: “Xin chào mọi người.” Ông già hỏi: “Tội gì?” Trong cách hỏi của ông ta, tôi cảm thấy thân thiện. Tôi ngập ngừng. Nếu tôi nói đi chơi gái, chắc chắn tôi sẽ nhận được một tràng cười cùng lúc tôi sẽ bị đánh. Tôi nhớ đến tấm bảng treo trước ngực khi bị dẫn đi diễu hành, tôi trả lời: “Dạ, tàn dư Mỹ ngụy”. Thời đó, tàn dư Mỹ ngụy bị bắt không phải ít và với những tội danh khác nhau, trốn tránh trình diện cải tạo, hoặc bị tố cáo làm gì đó trong chế độ cũ. Ông ta hỏi tiếp: “Làm gì?” Tôi nói: “Viết văn.” Ông ta mỉm cười. Tôi cũng thở ra nhẹ nhõm. Ông ta giới thiệu người trưởng phòng. Một thanh niên trẻ, tên A, không có vẻ gì khỏe mạnh nhưng khôn lanh. Anh ta hỏi tôi: “Tình hình bên ngoài thế nào?” Tôi nói: “Rất nhiều nhà văn, nhà báo bị bắt.” Anh ta hỏi: “Có thăm nuôi không?” Tôi bảo chắc có nếu gia đình biết tin. Anh ta nói sẽ giúp tôi báo tin cho gia đình.

9 giờ tối, tôi được gọi đi làm việc.

Quản giáo dẫn tôi ra khỏi phòng giam. Tôi đi lơ lửng chênh vênh trên mặt đất. Một cảm giác giống như ảo cảnh. Đầu óc lơ mơ. Phòng làm việc chỉ có một cán bộ chấp pháp. Anh ta nói: “Ngồi đi.”

Tôi ngồi xuống. Cán bộ hỏi: “Anh làm gì trong phòng trọ?”

Tôi nói: “Tôi ngủ với bạn gái.”

Cán bộ hỏi: “Có hôn thú không?”

Tôi nói: “Thưa, không.”

Hắn hỏi: “Nghề nghiệp?”

Tôi nói: “Dạ, đang thất nghiệp.”

Cán bộ hỏi: “Không thất nghiệp thì làm gì?”

Tôi đáp: “Có thể làm một số nghề như viết thuê hoặc làm văn phòng.”

Cán bộ hỏi: “Có được thuê viết truyền đơn không?”

Tôi toát mồ hôi: “Da, không.”

Cán bộ hỏi: “Vậy thường viết cái gì?”

Tôi đáp: “Dạ, viết cái người ta thuê.”

Cán bộ hỏi: “Người ta thuê viết cái gì?”

Tôi đáp: “Dạ, viết về một cuốn sách, hoặc một tiếng hát, hay một cuốn phim.”

Cán bộ hỏi: “Anh là nhà văn hay nhà báo?”

Tôi đáp: “Có khi là nhà văn, có khi là nhà báo. Hiện nay thì không là nhà gì cả.”

Cán bộ hỏi: “Anh thích ở nhà thổ hay nhà tù?”

Tôi lại toát mồ hôi, không thể đùa trong trường hợp này, tôi không biết nói sao. Im lặng. Cán bộ hỏi: “Sao anh im lặng?”

Tôi đáp: “Vì tôi không biết nói sao.”

Hắn đưa cho tôi mấy tờ giấy, bảo: “Anh viết tự khai.”

Xong, hắn đi ra.

Tôi ngồi một mình. Tôi không biết khai cái gì. Kể chuyện tình của tôi với Mã Kiều Nhi à? Tôi đang thất nghiệp, ăn bám Kiều Nhi. Tôi nói về những giấc mơ của mình chăng? Tôi chẳng có giấc mơ nào ngoài ước mong được yên ổn. Cách mạng đang đùng đùng ngoài kia. Tôi sợ cách mạng. Cách mạng là chấm dứt mọi mơ mộng. Cách mạng chỉ là lao động sản xuất, là kinh tế mới. Và cách mạng là trấn áp. Tôi không thể nói những suy nghĩ của mình. Tôi để tờ giấy trắng.

Cán bộ chấp pháp quay trở lại. Anh ta nhìn tờ giấy trắng. Anh ta bỏ đi. Người quản giáo đến đưa tôi về phòng giam.

Tôi được nhường chỗ bên cạnh ông già, một người tù chính trị. Ba viên gạch bông, mỗi viên hai tấc. Tôi lấy đôi dép làm gối. Cố ngủ.

Giữ đúng lời hứa, sáng hôm sau trưởng phòng đưa tôi một miếng giấy bao thuốc lá và cây bút chì. Tôi viết cho Vương viên ngoại: “Con và Mã Kiều Nhi bị bắt. Đang ở trại giam TB. Phòng 315”, bên dưới tôi ghi địa chỉ nơi đến. Lá thư được quấn quanh miếng gạch nhỏ bằng một sợi thun, rồi được bắn qua hàng rào cũng bằng mấy sợi thun.

Qua lối truyền thông tin bằng miệng từ phòng này qua phòng khác, tôi cũng biết được tin của Mã Kiều Nhi.

Hai tuần sau tôi có quà thăm nuôi.

Việc nấu nướng trong tù là một kỳ công có thể sánh ngang với việc con người leo lên mặt trăng. Và một ngụm cà phê nóng có thể ví như vào thiên đàng. Nhưng đường đến thiên đàng lại chính là những phút giây ngắn ngủi đi gặp người thân và nhận quà tiếp tế. Mặc dù vẫn là trong nhà tù, nhưng thoát ra khỏi bốn bức tường và đi trong một khoảng sân rộng hơn đã là một phần của tự do.

Con người trở nên hèn mọn vì một vài nhu cầu nhỏ nhặt. Trong tù, phạm vi suy tưởng dường như cũng co hẹp lại trong bốn bức tường. Làm thế nào để giữ gìn sức khỏe và tồn tại là điều quan trọng nhất. Tôi thường tập thể dục sát ngay song sắt để có thêm khí trời.

Cả phòng bị ghẻ. Tôi đã nhìn thấy những con cái ghẻ trong suốt dưới làn da của mình. Và tôi cũng nhìn thấy con người chỉ là những con cái ghẻ trong cuộc sống của nhau. Cũng như tôi không thấy có sự khác biệt nào giữa những con người bị coi là cặn bã như móc túi, cướp giật, lừa đảo, ma cô, đĩ điếm… trong nhà tù với những kẻ được coi là đáng kính ngoài xã hội, bởi trong trại giam cũng không thiếu những người vốn từng được kính trọng. Tôi không nhìn thấy có ranh giới nào giữa kẻ phạm tội và người chưa phạm tội.

Đêm giao thừa, cả phòng đã đón chào năm mới bằng bài quốc ca của chế độ cũ. Tôi thấy điều này thật tự nhiên, không phải vì họ có lập trường chống cộng hay chế độ, mà đó chỉ là một biểu hiện của trạng thái đối nghịch trong hoàn cảnh. Kẻ bị tù và chế độ bỏ tù họ.

Đại diện chế độ đáp trả bằng một món quà xuân đặc trưng, cùm chân tập thể cả phòng nguyên một ngày đầu năm.

Nếu như không có niềm tin rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, tôi không thể tưởng tượng mình có thể sống. Nhưng cuộc sống tốt đẹp là như thế nào, tìm kiếm ở đâu lại là những câu hỏi không có lời giải đáp. Tôi không có tham vọng trở thành một cái gì. Nhưng tôi vẫn cứ hy vọng vào cuộc sống. Tôi không tin chế độ này sẽ đem lại điều gì có ý nghĩa, nhưng tôi vẫn cứ phải ngụp lặn trong nó. Sống là một nhu cầu tự thân, một bản năng nằm ngoài những toan tính. Tôi không có ý nghĩ trả thù. Tôi cũng không có ước muốn cống hiến cuộc đời mình cho một lý tưởng nào đó. Tôi cần tự do. Và tự do tự nó là một ý nghĩa không cần biện minh hay lý giải.

Sau gần một năm, tôi và Mã Kiều Nhi được đi lao động cải tạo.

Bầu trời lúc nào cũng bao la, nhưng kỷ luật và nội qui làm cho con người bị biến thành con vật. Công việc hàng ngày là đào đất lên liếp rửa phèn theo chỉ tiêu. Sức khỏe của tôi không đủ khả năng đáp ứng với sự nặng nhọc này. Tuy nhiên, những người trong đội đã chia sẻ, họ để cho tôi làm được đến đâu thì làm. Không thể trông cậy mãi vào lòng thương hại của người khác, tôi chủ động đề nghị với ban quản giáo cho tôi được dạy học cho những trại viên chưa biết chữ.

Lớp học được hơn chục người, đa phần là dân móc túi vô gia cư. Họ không cần chữ. Vì thế, lớp học rơi rụng dần trước khi họ có thể đọc hay viết được một lá thư.

Tôi cũng nhận ra, việc bắt bớ và trừng phạt mình chẳng theo một thứ pháp luật nào. Vậy thì tại sao tôi phải tôn trọng nó?

Tôi bắt đầu có ý nghĩ trốn trại, mặc dù trước đó tôi đã lạnh người chứng kiến cảnh các quản giáo đánh đập tàn nhẫn một người trốn trại vào ban đêm bằng cây tre. Tôi đã cảm nhận cây tre khi bị dập sẽ trở nên ghê rợn như thế nào khi nó quất vào da thịt.

Cho dù thế nào, con người vẫn cần phải tin vào nhau. Nhưng đặt niềm tin vào người khác lại là chuyện rất may rủi. Tôi đã có may mắn khi ngỏ ý muốn trốn trại với người bạn nằm bên cạnh. Anh vốn là một thày giáo và là một cựu đảng viên Quốc dân Đảng, bị bắt vì tội vượt biên. Anh bảo tôi: “Nếu không thật sự cần thiết thì quên chuyện ấy đi.”

Tôi không có điều gì cấp thiết hay quan trọng để phải trốn trại, nhưng ý nghĩ bị trói buộc làm tôi cùng quẫn, khó thở. Đêm không ngủ được, sáng dậy vật vờ như con ma. Rồi tôi ăn uống cũng không được. Tôi đổ quỵ. Y tá trại cho tôi uống thuốc. Tôi vất thuốc đi. Càng lúc tôi càng suy sụp. Tôi không muốn sống nữa, bởi tôi không biết sống để làm gì. Mặc dù khi ấy, câu nói phổ biến nhất làm căn bản đạo đức cho một xã hội nghèo đói và nô dịch lạc hậu là “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, không phải không làm cho tôi cần nhìn lại cuộc sống của chính mình theo lý tính thuần túy. Nhưng tôi cũng đủ trải nghiệm để biết thực chất của nó chỉ là sự sáo rỗng của tuyên giáo trong một xã hội hoàn toàn giả dối và tàn ác. Những chính sách mù quáng và khắc nghiệt không mang lại cho bất cứ ai biết suy nghĩ độc lập một niềm hy vọng nào. Nhưng cái kinh tởm nhất đối với tôi không phải ở những sai lầm có tính điên rồ như thế của nhà cầm quyền, mà chính là cái thái độ của bọn nịnh thần bợ đỡ khắp mọi nơi, đặc biệt trong giới văn nghệ sĩ, trí thức. Một tình trạng vô liêm sỉ phổ quát. Tôi không muốn sống chung với dòi bọ.

Y tá trại đưa tôi về thành phố cấp cứu.

May mắn, tôi không bị còng tay vào giường và tôi đã ra khỏi nhà thương ngay khi có thể bước đi được.

Chuyện kể của Mã Kiều Nhi:

Tôi lúc nào cũng chỉ muốn sướng. Vì thế, chẳng có lý do gì tôi lại phải chịu khổ khi ở trong tù.

Khi chấp pháp kêu tôi lên làm việc, tôi đã rất nghiêm chỉnh khai báo tất cả những gì cán bộ muốn tôi khai báo. Tôi chẳng có gì phải che giấu, nhưng tôi cũng không dành cho cán bộ cái quyền giáo dục tôi.

Tôi nói với cán bộ: “Sự thật về em rất đơn giản, khi bị bắt em không làm đĩ, mặc dù em có làm tình. Còn lý do vì sao em làm tình cũng rất đơn giản, vì em thích. Anh có muốn làm tình với em không?” Rồi tôi cởi nút áo khoe vú. Tôi nói: “Vú em đẹp. Cho anh nhìn miễn phí.”

Cán bộ hét lên: “Cô kia! Đây là phòng làm việc.”

Tôi bảo: “Phòng làm việc thì làm tình cũng đâu có sao.” Rồi tôi cười: “Em không tố cáo anh đâu. Em thích vui. Anh cứ vui đi, chẳng việc gì phải tự làm khó mình. Nếu anh không dám làm thì cứ nhìn cũng không sao. Em đẹp mà phải không?” Anh cán bộ hỏi: “Cô muốn gì?”

Tôi nói: “Em nói rồi. Em muốn vui.” Rồi tôi nựng vú tôi, nói: “Anh cứ tự nhiên, em không la làng đâu.”

Cán bộ nói: “Thôi, cô mặc áo lại cho tử tế rồi về phòng.”

Tôi nói: “Nếu có thể được thì anh tiếp tế đồ ăn cho em, mai mốt ra tù em sẽ trả ơn.”

Tuy không được thả, nhưng tôi vẫn nhận được quà thăm nuôi của Đạm Tiên do quản giáo mang đến tận phòng.

Khi bị đưa đi lao động cưỡng bức, tôi cũng tìm được cách cho quản giáo biết tài năng của một phụ nữ tiết hạnh khả phong công dung ngôn hạnh. Tôi nấu ăn giỏi và hát hay, vì thế tôi được chọn làm phụ bếp và tham gia ban văn nghệ của trại. Tôi chỉ thiếu mỗi danh hiệu áp trại phu nhân thôi, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi cũng cho các anh cai tù bóp vú một cách kín đáo.

9.

Không ai nghĩ tôi là ma, Đạm Tiên nói, bởi những cảm giác thật tôi mang đến cho người khác. Không một ai biết tôi chỉ là sự ngưng tụ của một ảo ảnh, ảo tưởng và những gì người khác thấy và cảm nhận chỉ là một ảo tượng. Vương Thúy Kiều hay Mã Kiều Nhi tưởng tôi là một người bất tử như họ. Tôi hiện hữu như một sinh linh và như một khát vọng, tôi có thật trong cuộc đời này với những tác động hiển nhiên vào cuộc sống những người liên hệ với tôi. Nhưng thật ra tôi chỉ là ma. Bởi là ma, tôi sống trong bóng tối của con người. Tôi biết tường tận mọi sâu kín. Và tôi đến để những sâu kín được hiển lộ. Vì tôi là đàn bà, tôi cũng là ham muốn của trần gian, nhưng đừng vội bảo tôi là tội lỗi, bởi thật ra tôi là cái đẹp, hạnh phúc và viên mãn. Tôi là đầu tiên và cuối cùng của một hành trình trong đời của mỗi một đàn ông. Tôi không phải bất tử nhưng tôi hằng có. Tôi là động lực của sự sống vì thế không một đàn ông nào có thể từ chối tôi khi tôi muốn. Tôi biết cách làm thỏa mãn bất cứ người đàn ông nào bởi vì tôi biết họ cần gì. Cái kinh nghiệm mang tính nhân loại đã nâng tôi lên thành thần. Dân gian gọi là “Thần Lồn”. Tôi dâng hiến và ban phát. Tôi phục vụ và được tôn thờ. Thật ra, ma hay thần cũng không khác gì nhau. Cũng không phải vấn đề đẳng cấp. Thế giới của sự thật hay chân lý chỉ là một. Rồng hay rắn cũng chỉ là một. Sự sướng tuyệt đỉnh không phân biệt giả hay thật, già hay trẻ, thơm hay thối. Tôi có mùi của sự chết. Và đến với tôi không một ai mà không chết. Chỉ có cái chết con người mới đạt được sự toàn mãn. Bởi vì đụ là một quá trình của cái chết. Ai không biết điều ấy chẳng bao giờ đạt được cái sướng tuyệt đỉnh. Tiếc thay cho những kẻ thay vì phiêu dật vào cái vô cùng lại biến nó thành lầm than và tủi nhục của sự giới hạn.

Nguyễn nói với Đạm Tiên: “Em có khả năng biến đổi một người đàn ông tầm thường trở thành vĩ đại.”

Đạm Tiên cười: “Không dám. Anh đã đụ em cả ngàn lần mà anh có khá lên được tí nào đâu.”

Nguyễn nói: “Vì thật sự em chưa bao giờ yêu anh.”

Đạm Tiên bảo: “Cũng có thể vì anh chưa bao giờ buông thả mình thật sự.”

Nguyễn tự đặt cho mình một loạt câu hỏi: Thế nào là dấn thân? Thế nào là hết mình? Đâu là những trở ngại và cách vượt qua trở ngại? Để làm gì? Rồi thế nào là cân bằng? Có cần thiết phải cân bằng không? Cái tối hậu là gì? Nhưng Nguyễn không bao giờ muốn có câu trả lời, bởi vì chàng biết mình không đủ sức để sống với câu trả lời, đích thực.

Nguyễn bất ngờ thấy mình đang ở trên đỉnh núi. Nhìn xa về phía đông là biển. Sau lưng chập chùng những ngọn núi khác. Nguyễn bảo: “Anh không tưởng tượng được mình có thể leo lên được tới đây.”

Đạm Tiên cười: “Bởi vì anh không tin vào chính mình. Nhưng bây giờ thì anh đã ở trên đỉnh núi.”

Nguyễn hỏi: “Có thể giải thích điều này thế nào? Mộng du hay ma giấu?”

Đạm Tiên bảo: “Anh hiểu sao cũng được.”

Nguyễn hỏi: “Đây là đâu?”

Đạm Tiên đáp: “Núi Chà Bang. Anh nghe đến nó rồi phải không?”

Nguyễn xao xuyến: “Ừ. Ninh Thuận.”

Đạm Tiên hỏi: “Anh thấy thế nào?”

Nguyễn nói: “Anh thấy tiền kiếp.”

Đạm Tiên bảo: “Đừng xạo nhé.”

Nguyễn nói tiếp: “Anh thấy cả vị lai.”

Đạm Tiên bảo: “Anh đừng phét lác kiểu văn chương triết học thế. Em là ma đấy.”

Nguyễn nói: “Ngày xưa anh đã chăn dê dưới chân núi này.”

Đạm Tiên bảo: “Coi chừng em quăng anh xuống núi cho chăn dê tiếp.”

Nguyễn nói: “Có vài lần anh đã thử leo lên núi.”

Đạm Tiên hỏi: “Để làm gì?”

Nguyễn đáp: “Xem có gì linh thiêng.”

Đạm Tiên hỏi: “Anh thấy gì?”

Nguyễn nói: “Anh thấy tiền kiếp.”

Đạm Tiên hỏi: “Lần khác anh thấy gì?”

Nguyễn nói: “Cũng chỉ thấy tiền kiếp.”

Đạm Tiên hỏi: “Tiền kiếp anh là gì?”

Nguyễn nói: “Một thằng bé chăn dê.”

Đạm Tiên hỏi: “Còn vị lai của anh?”

Nguyễn nói: “Một nhà văn.”

Đạm Tiên hỏi: “Cảm giác của anh bây giờ?”

Nguyễn bảo: “Anh sợ mình không thể xuống núi được.”

Đạm Tiên cười: “Em sẽ giúp anh bay xuống. Nhưng quên chuyện ấy đi. Hãy sống với cái mình đang có.”

Nguyễn nói: “Khí trời, mây, gió, độ cao và gái?”

Đạm Tiên nói: “Chỉ có gái”.

Gái là một thực tại nhãn tiền. Và Đạm Tiên phô bày một thực thể huy hoàng tiên nữ. Không phải cung đình diễm lệ kiểu phim Tàu, mà porno Hollywood siêu thực. Gió làm cho thực thể ấy sóng. Cây cỏ làm cho thực thể ấy đa dạng mông lung. Chim hót làm cho thực thể ấy dậm dật mê cuồng. Nhưng mây và thanh khí lại làm cho thực thể ấy trở nên hư ảo. Nguyễn thấy mình căng phồng như một quả bóng. Nhục dục và siêu thoát. Chàng kêu lên đáo bỉ ngạn sa tràng thọ tiễn. Úm ba la mật. Trong một chớp lóe sáng lòa của ý thức, Nguyễn thấu cảm ngẫu tượng tôn giáo của Linga và Yoni.

Sau này, Nguyễn nhất định cho rằng mình là người gốc Chăm.

Những cuộc tấn công của Chiêm Thành vào Đại Việt trong khoảng từ năm 1360 đến 1390 hẳn đã để lại nhiều hậu duệ hung hãn và lãng mạn.

10.

Hơn ba mươi năm sau lần đi tù vì tội làm tình trong nhà trọ không có hôn thú, Nguyễn lại vào tù bởi một chuyện vớ vẩn khác. Chàng bị bắt vì giúp đỡ dân oan mất đất viết đơn thưa kiện.

Tòa án khép tội Nguyễn xúi giục dân oan làm loạn và viết blog chống phá chế độ. Bốn năm tù.

Nguyễn đã từ chối nói lời sau cùng. Chàng phủ nhận toàn bộ cái phiên tòa giả hình, lố bịch không phải bằng những lời lẽ anh hùng mà bởi sự im lặng. Chàng không muốn thừa lời với những kẻ bất xứng.

Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Thật lạ, ông Nguyễn vẫn còn tính nhân văn. Lẽ ra, ông ta phải biết mình đang ở thời đại nào.”

Thúc Sinh trầm ngâm: “Biến thái như cậu là thức thời. Nhưng cũng có thể vì thế, tôi chưa bao giờ coi cậu là nhà văn. Nói cậu đừng buồn.”

Từ Hải: “Tôi cần một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Và tôi nghĩ là tôi đã làm được điều đó.”

Thúc Sinh bảo: “Phải. Cậu đã làm được tất cả những gì cậu muốn. Và tôi biết, đến một lúc nào đó, cả ông Nguyễn cũng sẽ phải biến thái như cậu. Vì đó là guồng máy, không cho phép bất cứ ai có bản sắc cá biệt.”

Từ Hải nói: “Khi chọn nghề viết văn và làm báo, tôi tưởng mình vẫn có thể làm cách mạng theo một cách khác, dù lắt léo, kín đáo. Nhưng càng sống lâu, tôi càng biết mình ngụy tín. Vì thế, tôi theo anh. Không làm gì được cho sự công bằng giữa con người thì ít nhất tôi cũng không muốn làm cho mình bị thiệt thòi.”.

Hồ Tôn Hiến cho gọi Thúc Sinh đến. “Hãy tìm cho tôi một người giỏi đoán điềm giải mộng.”

Thúc Sinh đưa Đạm Tiên vào gặp Hồ Tôn Hiến.

“Tôi có thể giúp gì được cho vương phủ?” Đạm Tiên hỏi.

Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi nghe nói cô thông suốt âm dương. Vì thế, nhờ cô vài việc.”

Đạm Tiên bảo: “Tôi sẵn sàng nghe ngài đây.”

Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi có những giấc mơ giữa ban ngày. Đại thể, đó là những sinh linh, không, không phải những sinh linh, mà là những ngọn cỏ. Trên đầu ngọn cỏ có những cái miệng. Những cái miệng đó phun ra máu làm đỏ cả bầu trời. Vâng, cỏ non xanh rợn chân trời và máu tươi chói lọi tầng không. Còn ban đêm thì lại khác cô ạ. Đêm trắng. Trắng không có bất cứ cái gì hiện hữu. Tôi không an tâm.”

Đạm Tiên hỏi: “Ngài có tin tôi không?”

Hồ Tôn Hiến đáp: “Tôi mời cô đến mà.”

Đạm Tiên nhắc lại: “Ngài có tin tôi không?”

Hồ Tôn Hiến buộc phải nói: “Thưa cô, tôi tin.”

Đạm Tiên: “Vậy ngài sẵn sàng làm theo lời tôi chứ?”

Hồ Tôn Hiến: “Thưa cô, sẵn sàng.”

Đạm Tiên: “Việc thứ nhất: Ngài cho lập ngay một bàn thờ, chỗ nào cũng được nhưng nhất thiết phải ở hướng Bắc. Trên bàn thờ ấy, ngài đặt một tượng thần Bạch Mi. Mỗi ngày ngài cúng bốn lần, sáng, trưa, chiều và trước khi đi ngủ trong vòng đúng một trăm ngày. Mỗi lần cúng, ngài đốt 4 cây nhang và thắp 16 ngọn nến. Không cần khấn vái gì, chỉ cần lòng thành hướng đến vô lượng kiếp của mình. Việc thứ hai: Sau một trăm ngày, ngài cho chuẩn bị lễ vật gồm một cô gái đồng trinh và một bình rượu Minh Mạng cúng cho thần Bạch Mi. Bản thân tôi sẽ lên đồng gọi hồn cho ngài hỏi han.”

Hồ Tôn Hiến: “Tôi sẽ làm theo lời cô.” Và Hồ Tôn Hiến đưa cho Đạm Tiên một cái séc tạm ứng 20.000 USD.

Một trăm ngày sau, trước bàn thờ Bạch Mi là Vương Thúy Kiều lõa thể nằm trên tấm thảm có in hình trống đồng Đông Sơn. Rượu Minh Mạng 14 ly đặt xung quanh. Đạm Tiên đứng thắp hương vái lạy thần tổ, rồi nàng dùng khăn riêng lau trên mặt vị thần theo nghi thức truyền thống của lầu xanh, cầu mong luôn được khách chơi yêu thương.

Xong, Đạm Tiên ngồi xuống xếp bằng, lấy khăn đỏ trùm kín đầu.

Thúc Sinh đưa cho Hồ Tôn Hiến bốn cây nhang đã cháy và một tờ giấy. Hồ Tôn Hiến khom người vái ba vái rồi lẩm nhẩm đọc những lời trong giấy. Đọc xong lại vái ba vái rồi mới cắm nhang vào lư hương. Bất thần, Đạm Tiên hét lên. Nàng giãy đành đạch như bị cắt tiết. Miệng phát ra âm thanh của một ông già: “Ta là Bạch Mi, cụ tổ của Vương Thúy Kiều đoạn trường tân thanh. Thiện nam muốn biết điều gì?”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Thế lực thù địch rộ lên khắp nơi, thiện nam phải làm sao?”

Bạch Mi phán: “Phải nói cụ thể mới xử lý hiệu quả được. Gần hay xa, trong hay ngoài, bên trái hay phải, Đông Tây Nam Bắc ở đâu?”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Trong cũng có, ngoài cũng có, gần cũng có mà xa cũng có, trái hay phải đều có.”

Bạch Mi phán: “Thế là thập diện mai phục, tứ bề thọ địch. Phải dùng kế ‘Không thành’ của Gia Cát Lượng mà hành động.”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để bảo toàn gia nghiệp?”

Bạch Mi phán: “Cất giữ vàng thật, phát hành tiền giả.”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để tiêu diệt kẻ thù?”

Bạch Mi phán: “Muốn tiêu diệt thù ngoài thì phải củng cố nội lực. Muốn tiêu diệt thù trong thì phải gia tăng âm phúc. Muốn làm được cả hai việc đó thì trước hết phải xây dựng lại tổ đình xã tắc.”

Hồ Tôn Hiến thưa: “Còn muốn bảo toàn tính mạng?”

Bạch Mi phán: “Bồi dưỡng chân khí bằng miên trường âm hộ của trinh nữ thuần Việt. Muốn hỏi gì nữa không? Đã đến giờ ta thượng hưởng.”

Đạm Tiên ngã người lên Thúy Kiều và hai người ôm chặt lấy nhau.

Trước khi đưa ra dự án xây dựng lại tổ đình xã tắc, Hồ Tôn Hiến cho xây mới nhà thờ tổ dòng họ. Họ Hồ sai người về quê Tích Khê, tỉnh An Huy mua đất, cùng đi có một thày địa lý phong thủy. Việc chọn thế đất và thiết kế xây dựng hoàn toàn do ông thày quyết định theo tôn chỉ “đời đời bền vững”.

Hồ Tôn Hiến cũng ra một nghị quyết độc quyền thương hiệu vàng, đồng thời cho phát hành một loại tiền mới bằng giấy nhôm theo hệ cửu phân nhằm ghi dấu ấn thời đại của mình. Không nói ra, nhưng nhân dân đều biết chín nút là chắc cú. Đại Việt ta ắt phải thành rồng.

Riêng việc bồi dưỡng chân khí, Hồ Tôn Hiến vẫn giao cho Thúc Sinh lo liệu. Vốn là một người kỹ lưỡng, nhưng biết thụ hưởng, Thúc Sinh đều casting tất cả các em trước khi dâng cho thủ trưởng.

Có lẽ tử vi của Hồ Tôn Hiến không được tốt về hai cung thê, tử. Truyện kể rằng khi làm Án sát Chiết Giang, Hồ Tôn Hiến được Tể tướng của Gia Tĩnh chủ hôn cưới một hoa hậu ở địa phương, nhưng khi sang An Nam công cán, triều đình nhà Minh nhất quyết không cho họ Hồ mang vợ con theo, vì sợ họ Hồ cát cứ phản nghịch. Khi ở An Nam, họ Hồ được cống tiến một hoa khôi Tây Bắc. Cô này để lại cho họ Hồ một truyền nhân, trước khi cô bị giết để bảo toàn thanh danh cho Hồ Tôn Hiến. Thúc Sinh biết rõ việc này vì ông ta đã hưởng thừa cái vinh quang của thủ trưởng. Hồ Tôn Hiến có ý muốn thay đổi khẩu vị, Thúc Sinh tiến cử một chân dài Nam bộ. Trong kiệu màn che trướng rủ, Thúc Sinh động tà tâm hiếp cô này ngay giữa đường tiến cung. Cô mang dòng máu phản bội trong người về với Hồ Tôn Hiến. Có người bảo, Thúc Sinh buôn vua theo cách của Lã Bất Vi. Nhưng người con này đã tự sát khi anh ta vừa đến tuổi trưởng thành không biết vì lý do gì. Còn người con thứ hai với hoa khôi Tây Bắc chọn cách sống ẩn dật vô danh để cố giữ lấy cái mạng cùi. Người vợ đầu tiên và đứa con chính thống không ai biết số phận ra sao. Còn người con gái và con rể vẫn được coi là chính thức hiện đang sống với Hồ Tôn Hiến thật ra chỉ là bọn tình báo được triều đình nhà Minh cài cắm nhằm giám sát kẻ gian hùng này.

Nguyễn vùi mình trong bóng tối của nhà tù. Chàng tuyệt vọng như sau những ngày vừa giải phóng 1975. Cái cảm giác của sự chấm dứt giày vò chàng. Đối với  việc viết văn, sự chấm dứt lại càng trở nên khốc liệt hơn. Nó giống như sự băm vằm. Nguyễn phải sống một cuộc đời khác, nếu muốn tồn tại. Chưa bao giờ ý nghĩ thỏa hiệp có trong đầu chàng. Cái thôi thúc của một nhà văn không phải là tìm kiếm danh vọng, lại càng không phải miếng cơm manh áo. Trong điều kiện bắt buộc của chữ nghĩa nô lệ, thì việc trở thành nhà văn chỉ là một hành động tự phỉ báng về nhân cách. Vì thế, Nguyễn đã sống như không sống. Đã chết mà vẫn lay lắt. Vả lại, cũng chẳng có bất cứ điều gì buộc Nguyễn phải viết, thế thì cớ gì chàng phải khom lưng làm một kẻ xu nịnh viết những điều dối trá?

Mã Kiều Nhi không bỏ rơi Nguyễn. Nàng tiếp tế thực phẩm cho chàng và an ủi linh hồn chàng bằng cách dùng những tờ giấy báo có in những bài thơ dịch gói quà cho chàng.

Nhưng người cứu vớt Nguyễn thực sự lại là một nhà sư. Bị giam chung với Nguyễn, nhà sư dạy chàng tập thiền, dạy chàng cách ngồi, cách hít thở và cách buông xả. Quan trọng hơn, nhà sư dạy chàng cách yêu cuộc đời, yêu những vạt nắng hiếm hoi nhìn thấy và yêu cái không gian chung quanh mình.

Rồi Nguyễn rơi vào một trạng huống tinh thần vô xứ. Chàng không còn coi điều gì là quan trọng hay đáng kể. Làm hay không làm bất cứ điều gì đều là những khả thể vô nhiễm, mặc dù chàng vẫn ý thức được tính nghiệp của nó. Một trong những hệ quả của tình trạng tinh thần này đã giúp chàng thoải mái trong việc sử dụng ngôn ngữ, nó thể hiện một tâm thái tự tại vượt qua cái hàng rào văn hóa ước lệ. Chính danh trong ngôn ngữ là chính tâm trong hành động và tư duy, nó cũng giải nghiệp và làm sáng tỏ hành động và tư duy, nó tác động ngược trở lại chính ngôn ngữ và tạo ra sức sống mới cho ngôn ngữ. Nguyễn cảm thấy mình linh hoạt hơn. Chữ nghĩa với chàng trở nên trần trụi mà cũng tràn trề sắc độ phong nhiêu hơn. Đầy ngẫu hứng và chạm đến cốt tủy. Thay vì câm lặng, Nguyễn nhảy múa. Thay vì dâng một đóa hồng, Nguyễn đã cầm lên cây búa. Chàng hủy diệt và luôn luôn hủy diệt.

Đấy là cách Nguyễn thoát ra khỏi nhà tù.

11.

Thúc Sinh hoàn toàn nhận thức được cái hệ thống thù địch với con người vẫn đang vận hành và đúc khuôn cuộc sống mà ông đã thích nghi, thậm chí có khả năng điều khiển nó phục vụ cho lợi ích của mình, đến một lúc nào đó tất yếu sẽ đổ vỡ. Bởi hệ thống ấy được thiết lập và điều hành dựa trên các nguyên lý áp đặt của ý chí sai lầm. Vì thế, ông đã dự bị cho tương lai ở một xứ sở khác, nơi ông sẽ tận hưởng thành quả của mình một cách an toàn nhất. Nhưng ông cũng không muốn trở thành người trắng tay với lịch sử. Ông đặt cục gạch giữ chỗ cho lương tâm của mình với nhân gian bằng cách cho Từ Hải phục hồi nhân phẩm. Ông bảo Từ Hải cần phải trở lại là chính mình. Biết bất bình và biết phản kháng.

Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Chúng ta cần có một phương án cho những biến cố lịch sử. Tình thế hiện nay cho thấy, không có bất cứ một lực cản nào có thể ngăn được xu thế dân chủ đang đi tới. Sự thay đổi sẽ là tất yếu dù muốn hay không muốn. Vấn đề là thời gian và lực lượng nào sẽ làm chủ được sự thay đồi đó. Đây là thời cơ của cậu.”

Từ Hải thận trọng: “Anh không gài để bắt tôi chứ?”

Thúc Sinh nói: “Nếu cậu không làm thì cũng sẽ có người khác làm. Tôi cần kiểm soát được mọi tình huống. Trong trường hợp của tôi và cậu, tôi nói thật, chúng ta đặt cược cả hai cửa. Kiểu gì chúng ta cũng thắng. Cậu hiểu chứ?”

Từ Hải: “Vâng, tôi hiểu”. Tuy nói thế, Từ Hải thừa biết mình có thể trở thành tốt thí bất cứ lúc nào. Nhưng từ chối Thúc Sinh không phải là điều đơn giản. Cũng có thể điều này còn là gợi ý của Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bỗng nhận ra mình chỉ là một con bài.

Từ Hải nói: “Tôi thật sự không còn dũng khí. Vả lại, tôi chỉ muốn trung thành với anh cũng như với Hồ Tôn Hiến.”

Thúc Sinh cười lớn: “Nếu cậu không muốn thì thôi. Sau này đừng trách tôi không chia sẻ với cậu.”

Từ Hải bảo: “Guồng máy đã nhào trộn tôi thành bã và bản thân tôi cũng đã tự gọt giũa cho vừa với cuộc sống này. Tôi đã quen phục tùng. Biết bất bình và biết phản kháng vượt quá sức tôi.”

Thúc Sinh: “Cậu vẫn còn ý thức và nhận diện được mình thì chưa phải là hỏng hết. Nếu cậu bảo cậu đã quen phục tùng, thì hãy nghe đây: Chúng ta chơi cờ và chúng ta tự biến thành quân cờ. Một cuộc chơi đến tận cùng số phận. Chúng ta chỉ có một trả giá duy nhất là trở thành tay chơi thứ thiệt. Đấy là điều tôi muốn, tôi và cậu không phải là dũng sĩ giác đấu. Chúng ta là những con buôn, có thể bỏ vốn bằng máu nhưng không chấp nhận thua lỗ.”

Từ Hải nghĩ, chẳng có điều gì chắc chắn, nhất là lại đầu cơ vào chính trị. Tuy nhiên, chàng vẫn nói với Thúc Sinh: “Nếu anh cũng chơi thì tôi theo.”

Khi ấy có nhiều người chính thức ra khỏi Đảng của Hồ Tôn Hiến, hoặc tiêu cực hơn thì lẳng lặng không sinh hoạt chi bộ nữa. Đạm Tiên nói với Từ Hải: “Để phù hợp với bản chất của anh, anh không thể bó thân mãi trong cái đảng ẩm ương ấy, vào Hội Bạch Mi với chúng em, anh tha hồ tung hoành. Sự nghiệp của anh sẽ bền vững muôn đời cùng với sự bất biến của đĩ nghiệp chúng em.”

Từ Hải trừng mắt hỏi: “Sao lại gọi là ẩm ương?”

Đạm Tiên nói: “Một cái đảng độc tôn, độc tài toàn trị, nhưng lại lãnh đạo tập thể. Không ai chịu trách nhiệm. Cứ một thằng làm thì hai thằng phá, bọn ngu dốt còn lại thì ỡm ờ ăn theo. Vì thế đảng của anh suốt bao năm nay chỉ biết loay hoay tự sướng, vơ vét và làm khổ nhân dân.”

Từ Hải hỏi: “Cô không sợ bạo chúa à?”

Đạm Tiên nói: “Bạo chúa mà được việc thì vẫn còn hơn cái lũ ham hố quyền lực mà không biết làm gì ngoài việc bắt nạt dân chúng. Em nói cho anh biết nhé, không phải chỉ có Đảng của Hồ Tôn Hiến mới theo đuổi quyền lực. Bọn đĩ điếm chúng em cũng muốn thực thi công lý theo cái cách phổ quát nhất, anh cứ nhìn kỹ xem.”

Từ Hải cười lớn: “Công lý ở chỗ nào?”

Đạm Tiên: “Ăn bánh phải trả tiền. Có phải là công lý không?”

Từ Hải đáp: “Phải.”

Đạm Tiên: “Bọn anh vơ vét của nhân dân, có đền bù gì xứng đáng?”

Từ Hải: “Em không thấy đất nước tiến bộ à?”

Đạm Tiên: “Anh so sánh với cái gì?”

Từ Hải: “Hôm qua.”

Đạm Tiên: “Thối. Các anh chỉ so sánh theo chiều dọc mà không so sánh theo chiều ngang.”

Từ Hải: “Dù sao vẫn là tiến bộ.”

Đạm Tiên: “Có rất nhiều cái thụt lùi đấy. Cần em chứng minh không?”

Từ Hải im lặng.

Đạm Tiên chua chát: “Chưa bao giờ chúng ta độc lập, cũng như tự do và hạnh phúc.”

Vào Sài Gòn công tác, Hồ Tôn Hiến được Thúc Sinh chiêu đãi một thực đơn châu Phi hoang dã từ thức ăn đến các em phục dịch đẳng cấp văn học khiêu dâm Mã Kiều Nhi, Đạm Tiên và Vương Thúy Kiều.

Thúc Sinh nói với Hồ Tôn Hiến: “Chúng ta đang ở bên bờ vực phá sản. Nếu không quyết liệt xóa bàn làm lại, chúng ta sẽ mất hết, kể cả mạng sống.”

Hồ Tôn Hiến bảo: “Trung Quốc đang có tham vọng tranh giành địa vị bá chủ thế giới. Manh động lúc này có thể dẫn tới việc quân Trung Quốc mang xe tăng tràn qua biên giới như  thảm kịch của Hungary 1956, Tiệp Khắc 1968…”

Thúc Sinh nói: “Nếu Mỹ hậu thuẫn đưa Hạm đội 7 vào Biển Đông thì không sợ. Nhưng dù sao cũng phải tạo ra một bối cảnh hợp lý.”

Hồ Tôn Hiến bảo: “Tình báo Hoa Nam có mặt ở khắp nơi. Không qua mặt bọn chúng được.”

Thúc Sinh: “Chẳng lẽ chúng ta buông xuôi chờ ngày nhân dân đến treo cổ?”

Hồ Tôn Hiến: “Không, phải hành động. Chúng ta cần có một quần chúng của mình bên cạnh một đồng minh đáng tin cậy.”

Thúc Sinh: “Chúng ta chỉ có một quần chúng bất mãn. Bên ngoài không ai tin chúng ta.”

Hồ Tôn Hiến: “Trước hết cần giải quyết càng nhanh càng tốt bọn cơ hội trong Đảng.”

Thúc Sinh giật mình sợ Hồ Tôn Hiến giao việc cho mình. Ông không muốn là kẻ thù của bất cứ ai. Nhưng Hồ Tôn Hiến đã nói tiếp: “Ông gọi Sở Khanh cho tôi.”

Thúc Sinh đáp: “Ngày mai tôi sẽ cho nó trình diện anh.”

Rối Thúc Sinh bảo Vương Thúy Kiều chơi đàn. Những khúc dân ca Trung Quốc được Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên thay nhau hát. Nước sông Tiền Đường chảy về phương Nam hoài cảm trong tâm hồn họ.

Hôm sau, Thúc Sinh đưa Sở Khanh ra mắt Hồ Tôn Hiến tại Đền Hùng Sài Gòn. Hồ Tôn Hiến hỏi: “Anh biết việc tôi cần chứ?”

Sở Khanh nhanh nhẩu: “Tìm cho ngài một cô gái?”

Hồ Tôn Hiến hỏi như không nghe Sở Khanh nói gì: “Anh vẫn còn khả năng lừa tình chứ?”

Sở Khanh: “Vâng, đấy là nghề của tôi.”

Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi muốn anh lừa cả bầy cừu.”

Sở Khanh: “Thưa được ạ. Nhưng tôi cần chính danh.”

Hồ Tôn Hiến nói: “Thúc Sinh sẽ làm thủ tục cho anh.”

Ban Huấn giáo trực thuộc Văn phòng Hồ Tôn Hiến được thành lập do Sở Khanh làm trưởng ban. Ban này có trách nhiệm chính thức là tư vấn chính phủ về các lĩnh vực thông tin, văn hóa và giáo dục.

Thế giới có hình tam giác. Ta – Địch – Bọn không phải ta, không phải địch. Trong thế tam phân ấy, không cái nào đối đầu trực tiếp với cái nào, chúng nương nhau mà thành. Không có địch thì phải tạo ra địch, vì không có địch thì không có ta. Có ta mà không có “bọn không phải ta, không phải địch” thì không thể có vận hành, cai trị. Mà cai trị thì không chỉ có đàn áp, cai trị cũng cần tung hô. Đàn áp là biện pháp. Cứu cánh là tung hô. Thần thánh trên trời và ma quỉ dưới đất cũng chỉ là một hệ thống. Sở Khanh trình bày dự án hành động dựa trên các nguyên lý mâu thuẫn và đồng nhất. Theo đó, thúc đẩy mâu thuẫn để tạo nên sự đồng nhất. “Thế lực thù địch” và “phản động” trở thành sách lược qui phục quần chúng. Và “sở hữu toàn dân” hay “thế giới đại đồng” sẽ là chiêu bài xuyên suốt cuộc vận động lịch sử. Mục tiêu lừa tình do Hồ Tôn Hiến đề ra được Sở Khanh thi hành triệt để. Tất cả nghệ thuật lừa gái đều được Sở Khanh áp dụng để chinh phục quần chúng. Bầy cừu nhắm mắt đưa chân. Bọn chăn cừu muốn cắt lông và làm thịt nhưng không muốn vỗ béo bầy cừu. Bầy cừu đói muốn làm loạn nhưng vốn bản chất là cừu nên không bao giờ cừu biến thành sói.

Thế giới có hình vuông. Dân gian gọi là tứ trụ triều đình. Sự mất cân bằng của quyền lợi và tham vọng làm xô lệch cái hình vuông ấy. Thúc Sinh bí mật giao nhiệm vụ cho Sở Khanh thúc đẩy cái mâu thuẫn đa phương ấy lên cao với mục đích đồng nhất thế giới chỉ còn một đường thẳng. Đường thẳng ấy dẫn tới đâu không ai biết. Điều quan trọng là quyền lực phải được quy về một mối.

Bầy cừu nằm mơ có một ngày trời mới đất mới, nên Sở Khanh lại có nhiệm vụ cho một dự án lừa tình khác.

Thay vì một đường thẳng, thế giới biến thành hai đường đối nghịch chà xát nhau. Cả những kẻ đứng bên lề phải hay lề trái đều điêu đứng. Xác ruồi muỗi nhiều như cát.

Hoàng đế Gia Tĩnh cho sứ giả sang gặp Hồ Tôn Hiến.

Sứ giả nói: “Xét vì tình đồng hương, trên cơ sở đồng văn, hàng xóm láng giềng tốt, Thiên triều ủng hộ đồng chí trong cuộc tranh chấp quyền lực hiện nay.”

Hồ Tôn Hiến cúi đầu đa tạ, hô vang: “Gia Tĩnh vạn vạn tuế, vạn vạn tuế.”

Sứ giả tiếp: “Tuy nhiên, đồng chí không được quên sự cưu mang của Thiên triều với đồng chí. Vì thế đồng chí cần phải nêu cao tấm gương thần phục Thiên triều cho cả thế giới thấy. Vì cả thế giới này sẽ phải thần phục Thiên triều như đồng chí đã thần phục.”

Hồ Tôn Hiến đáp: “Tôi biết việc mình phải làm.”

Khi sứ giả vừa ra về, Hồ Tôn Hiến nhổ ra một búng máu, chửi: “Địt mẹ chúng mày.”

(Còn 2 kì)

© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra

Categories: Sáng tác