Karl Marx, một nhà nhân văn lãng mạn
Th5 2, 2013
Terry Eagleton
Phạm Thị Hoài dịch
Kỉ niệm 130 ngày mất (14-3-1883) của Karl Marx đã qua và kỉ niệm 195 ngày sinh (05-5-1818) của ông sắp đến, lặng lẽ, trong quốc gia lấy chủ nghĩa Marx làm nền tảng tư tưởng hiến định là Việt Nam. Không ở đâu Marx bị phá giá như ở những nơi chủ nghĩa mang tên ông bị áp đặt bằng mọi giá. Sự “thấm nhuần” chủ nghĩa Marx có lẽ đã khiến các học giả marxist chính thống ở Việt Nam bội thực tư tưởng và không thể nói gì về Marx ngoài tuyên truyền đãi bôi.
Bài viết sau đây cũng của một học giả marxist, nhà nghiên cứu văn học người Anh, ông Terry Eagleton, với tác phẩm gần đây nhất là Why Marx Was Right (Vì sao Marx có lí), Yale University Press, 2011.
Người dịch
______________
Ca ngợi Karl Marx có lẽ cũng khó lọt tai như nói một điều gì dễ thương về Thiền vu Hung Nô Attila. Chẳng phải những ý tưởng của Marx là đầu mối của độc tài, giết chóc quy mô lớn và tàn phá kinh tế đó sao? Còn có gì để bênh vực cha đẻ của những học thuyết từng dẫn thẳng đến các trại cải tạo và tệ sùng bái một gã nông dân Gruzia hoang tưởng, được biết đến với cái tên Stalin? Chẳng phải một học trò khác của Marx, Mao Trạch Đông, là thủ phạm gây ra vụ tàn sát dân chúng có lẽ lớn nhất trong lịch sử hiện đại đó sao?
Nhưng bắt Marx phải chịu trách nhiệm về Mao thì đại loại cũng giống như nhè đầu Jesus mà đổ cho tội của các Tòa án Dị giáo La Mã. Tay của nền văn minh Thiên chúa giáo cũng vấy máu biết bao nhiêu nạn nhân vô tội. Nhưng chúng ta không đem những điều kinh hoàng đó ra để cáo buộc các tác giả của Kinh Tân ước, cũng hệt như chúng ta không lấy nạn đói khổng lồ ở Ái Nhĩ Lan hay Đại chiến Thế giới I để quy trách nhiệm cho các nhà tư tưởng cấp tiến vĩ đại đã góp công lí giải xã hội tư bản hiện đại. Có nằm mơ Marx cũng không nghĩ rằng nên dùng chủ nghĩa xã hội để bẩy những quốc gia nghèo mạt rệp, lạc hậu về kinh tế, vọt lên xã hội hiện đại. Ông đã cảnh báo: Làm kiểu đó thì rốt cuộc ta chỉ được thêm một lần nữa đống phân cũ mà thôi. Hậu quả sẽ là cái mà Marx gọi là sự nghèo túng phổ cập.
Muốn tạo dựng các quan hệ xã hội chủ nghĩa, phải tận dụng những ưu thế của chủ nghĩa tư bản, chế độ mà Marx đã nhiệt liệt biểu dương. (Khác với một người hậu hiện đại, một người marxist bao giờ cũng đầy lòng kính trọng di sản cách mạng của các giai cấp trung lưu.) Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi những nguồn vật chất, những thiết chế dân chủ, một xã hội dân sự đua nở, những truyền thống khai sáng cởi mở cũng như một đội ngũ công nhân được đào tạo tốt và có tay nghề cao. Tất cả những điều đó không thể có được, nếu dân chúng đói ăn, thất học và bị cai trị bởi những kẻ chuyên quyền. Tất nhiên những quốc gia như vậy cũng có thể theo con đường xã hội chủ nghĩa, như những người Bolshevik Nga đã chọn. Nhưng họ chỉ có thể thành công nếu được những nước giàu mạnh hơn trợ giúp. Song ở trường hợp những người Bolshevik, các nước giàu lại tràn vào xâm lăng nước Nga và dìm cuộc cách mạng vừa mới lọt lòng trong một biển máu.
Tác phẩm của Marx quy về một vấn đề duy nhất. Vì lẽ gì mà những nền văn minh thịnh vượng nhất trong lịch sử nhân loại lại đi liền với nhiều nghèo đói, bất công, lao động rẻ mạt và lầm than như vậy? Đấy thuần túy chỉ là một sự bất hạnh đáng tiếc, hay nó nói lên một điều gì đó về những mâu thuẫn mang tính cơ cấu của những chế độ xã hội này? Như Freud, người đã khám phá hẳn một châu lục mới và đặt tên khai sinh cho nó là “Vô thức”, Marx đã lột trần và đặt tên cho sự vận hành của các hệ thống, đã nghiên cứu những nguồn gốc lịch sử của chúng và miêu tả những điều kiện khiến chúng có thể suy vong. Kẻ Do Thái tị nạn rách rưới ấy, người đàn ông có lần tự nhận rằng không ai viết nhiều về tiền mà hiếm khi trong túi có tiền như mình, đã đưa bộ động cơ biến tốc ẩn khuất của cái hình thái sinh tồn mà phần lớn chúng ta coi là đương nhiên ra ánh sáng. Sau Marx, người ta không thể lẫn lộn hình thái sinh tồn ấy với một sự phổ quát có tên là bản chất tự nhiên của con người nữa. Ngày nay, thậm chí các nhà tư sản cũng băn khoăn về chủ nghĩa tư bản. Đã đến mức ấy thì người ta biết rằng hệ thống này đang lâm vào vấn nạn. Sự khủng hoảng nội tại đã tước đoạt tính chất tự nhiên của nó và khiến nó trần trụi hiện ra đúng là mình.
Theo suy luận của Marx, không một hệ thống xã hội nào trong lịch sử chứng tỏ tính cách mạng như hệ thống mà chúng ta đang sống. Chỉ trong vòng vài thế kỉ, các giai cấp trung lưu châu Âu đã tích lũy của cải vật chất và tinh thần, đã lật nhào các nhà độc tài, giải phóng nô lệ, phá tan các đế chế, đem lại cho chúng ta dân chủ và nhân quyền và đặt nền móng cho một hình thái nhân văn thực sự mang tính toàn cầu. Với những ai ủng hộ giai cấp này, lịch sử là một tự sự hấp dẫn về tiến bộ; nhưng với những ai phê phán nó thì đó không là gì khác hơn một lịch sử của suy vong.
Marx thấy cả hai mặt đó. Với ông, lịch sử hiện đại là một câu chuyện của giải phóng xã hội, nhưng đồng thời cũng là một cơn ác mộng dài và khủng khiếp. Thêm vào đó, lại không thể kể câu chuyện này tách khỏi câu chuyện kia. Marx cho rằng cả hai đều xuất phát từ cùng những cơ chế xã hội ấy. Ông không hề phản đối những lí tưởng tư sản mạnh mẽ về tự do chính trị, bình đẳng, tự do cá nhân và tự định đoạt. Đó cũng là những lí tưởng của ông. Ông chỉ muốn tìm ra nguyên nhân vì sao những lí tưởng ấy, cứ khi nào được thực hiện, lại có xu hướng gây ra bạo lực, đàn áp, bất công và chủ nghĩa cá nhân tiêu cực. Chủ nghĩa tư bản đã giúp con người vươn đến những sức mạnh và năng lực vượt quá mọi thước đo từng biết. Nhưng nó không dùng những sức mạnh ấy để giải phóng con người khỏi ách lao công. Con người trong những xã hội thịnh vượng nhất địa cầu vẫn phải làm quần quật, chẳng khác tiền bối của mình thời đồ đá mới. Lí tưởng của Marx không phải là nhọc nhằn, mà là nhàn hạ. Nếu ông đã quá tập trung vào các vấn đề kinh tế thì chẳng qua chỉ nhằm bẻ gãy quyền lực độc đoán của nó với chúng ta.
Marx là một nhà đạo đức theo nghĩa đẹp nhất, truyền thống nhất. Ông chia sẻ với Aristotélēs, Hegel và Thomas Aquinas quan điểm rằng một cuộc đời đáng sống không phải là một cuộc đời của những bổn phận và trách nhiệm, mà là của hạnh phúc trong sự thực hiện bản thân. Vì thế điều căn bản trong luân lí, theo ông, là học cách phát triển những tư chất của bản thân, và ông cho rằng bản chất con người được phát huy tốt nhất khi nảy nở cùng đồng loại và thông qua đồng loại. Hoặc, như ông viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: khi con người vui hưởng một xã hội, trong đó “tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho tự do phát triển của mọi người”. Khi con người thấy mình thỏa nguyện trong sự thỏa nguyện của kẻ khác thì chúng ta gọi đó là tình yêu. Marx nghiên cứu một triển vọng như thế ở bình diện chính trị. Đồng thời, ông không buồn để tâm đến mọi bàn luận vô ích về một xã hội không tưởng. Hoàn thiện hóa xã hội là điều Marx không hề quan tâm.
Marx nồng nhiệt tin ở cá nhân. Hết mình là một nhà duy lí khai sáng, ông cũng hết mình là một nhà nhân văn lãng mạn, tránh lí thuyết trừu tượng và thích tất cả những gì rung cảm, sờ nắm được và độc đáo. Ông không cấp cho chúng ta bản thiết kế cho một tương lai xã hội chủ nghĩa. Ông chỉ vạch ra rằng, chúng ta có thể giải quyết những mâu thuẫn hiện đang ngáng trở một tương lai như thế bằng cách nào là tốt nhất. Còn sau đó, điều gì sẽ đến, thì ông gần như không thể nói gì hết. Ông không là một nhà tiên tri nhòm quả cầu thủy tinh mà đoán tương lai. Ông là một nhà tiên tri theo nghĩa Do Thái xác thực, người cảnh báo rằng chúng ta sẽ không có tương lai nếu không chọn những con đường khác.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức: “Ein romantischer Humanist“, Zeit, 23-05-2011
Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra
Categories: Marx và chủ nghĩa cộng sản
Tags: Freud, Karl Marx, Mao, Terry Eagleton, Tòa án Dị giáo