Cách mạng Nhung
Th1 3, 2013
Victor Sebestyen
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch
1. May thay, cuộc đấu tranh cho quyền làm người tại các nước cộng sản Đông Âu là một câu chuyện có hậu. Cách mạng Nhung 1989 diễn ra tại Tiệp Khắc, xứ sở của Franz Kafka, cũng là một câu chuyện có hậu.
Nhưng có hậu cho dân lại là bi kịch cho người cộng sản. Bi kịch vì đang ở chót vót quyền lực, người cộng sản bỗng bị truất phế, trắng tay. Nếu có trí tưởng tượng, rất có thể anh ta sẽ thấy mình giống nhân vật Gregor, trong Hóa thân của Kafka, một buổi sáng thức dậy thấy mình hóa thành một con sâu.
Vị lãnh đạo nhà nước cộng sản Việt Nam cũng có trí tưởng tượng như thế, gần đây ông cũng nhắc tới sâu. Nhưng, thay vì như Gregor, thấy mình là sâu, ông lại thấy người khác là sâu. Không tự biết mình cũng là một bi kịch của người cộng sản trong Cách Mạng Nhung.
2. Sự khác biệt lớn nhất của Cách mạng Nhung 1989 với Mùa Xuân Praha 1968, hoặc cuộc nổi dậy của người dân Hungary năm 1956, là “Quân Đỏ” từ bên ngoài đã không tràn vào, tấn công, chiếm đóng, đè bẹp người nổi dậy.
Hồng Quân từ lâu cũng đã hóa thân thành “đội quân đánh thuê” trong tay Đảng Cộng sản Liên Xô chuyên đi trấn áp dân các nước chư hầu, duy trì các chế độ toàn trị. Các chế độ này cũng có cấu trúc giống như tòa nhà một cột, với cái cột duy nhất là họng súng ngoại bang, súng gẫy thì sập. Đó cũng là một bi kịch khác của người cộng sản Tiệp Khắc.
3. Bài này được dịch từ bản Anh ngữ “The Velvet Revolution”, chương thứ 47 trong cuốn Revolution 1989, the Fall of the Soviet Empire (Cách mạng 1989, Đế quốc Xô-viết sụp đổ) của Victor Sebestyen, do Pantheon Books, New York, xuất bản năm 2009. Các tiêu đề, cách xuống hàng và các ghi chú trong ngoặc vuông là của người dịch.
Đầu năm 2013, xin gửi đến bạn đọc câu chuyện có hậu này như một lời chúc Tết chân tình, nhất là đến những người đang lao tâm khổ tứ, bị sách nhiễu, phải vào tù ra khám vì quyền làm người và vì độc lập dân tộc.
Phan Trinh
_______________
Người đặt tên
Praha, thứ sáu 17 tháng 11, năm 1989
Rita Klimova là người đặt tên “Cách mạng Nhung”. Bà từng làm giảng viên chính trị học tại Đại học Charles cổ kính ở thủ đô Praha, và cũng là phát ngôn viên vô cùng uyên bác của phe đối lập, lực lượng đã truất phế quyền lực của những người cộng sản Tiệp Khắc.
Vóc nhỏ nhắn, tóc vàng óng, Klimova nói tiếng Anh cực chuẩn với giọng Manhattan kiểu West Side. Số là vì lúc còn bé, bà đã từng đi học ở New York, nơi người cha, nhà văn cánh tả Batya Bat, đến định cư sau khi đào thoát khỏi Đức Quốc xã năm 1938. Khi thế chiến kết thúc, gia đình bà trở về Praha.
Câu chuyện của bà cũng là câu chuyện tiêu biểu của một người bất đồng chính kiến Tiệp Khắc những năm 1980. Bà từng là một người cộng sản thuần thành, giống như chồng bà, ông Zdenek Mlynar, bạn học của Mikhail Gorbachev tại Đại học Quốc gia Moscow vào thập niên 1950. Ông thăng quan tiến chức trong Đảng, bà thì thuận buồm xuôi gió trong giới khoa bảng. Khi Mùa Xuân Praha 1968 bị đàn áp thì hai ông bà mất việc, và mất luôn niềm tin đầy mộng mị rằng chủ nghĩa cộng sản là hy vọng của loài người. Trong những năm khốn khó thời kỳ “bình thường hóa” [thời đàn áp sau 1968] bà làm dịch thuật để kiếm sống, bà cũng tham gia tích cực vào Hiến chương 77 [1977], và là bạn thân của Vaclav Havel.
Bà Klimova, vốn cực kỳ thông minh, có lúc rất nghiêm nghị khiến người ta ngại, nhưng ở tuổi 58, bà vẫn còn rõ nét thanh xuân và không kém phần hài hước. Như Klimova từng nói, chính sự hài hước đã tạo nên đặc tính của Cách mạng Nhung, làm nó khác hẳn các cuộc cách mạng khác tại Trung Âu vào mùa hè-thu 1989.
Đánh bại chủ nghĩa cộng sản là việc nghiêm túc. Chẳng ai nghi ngờ điều này. Nhưng ở Tiệp Khắc, cách mạng diễn ra với ngập tràn âm nhạc, sự dí dỏm, hài hước, tiếng cười, đôi khi pha chút phi lý, diễn ra hầu như theo kịch bản của nhà biên kịch nổi tiếng Vaclav Havel.
Ảo tưởng “vô nhiễm”
Cách mạng diễn ra cũng rất nhanh, y như lời giáo sư Timothy Garton Ash, chuyên gia lịch sử Trung Âu nhận xét về tốc độ sụp đổ của các chế độ cộng sản: “Ba Lan mất mười năm; Đông Đức mất mười tuần; Tiệp Khắc mất mười ngày.”
Chưa đầy một tháng trước đó, giữa tháng 10, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tiệp Khắc Milos Jakes còn trấn an nhóm cộng sản chóp bu rằng “Chúng ta sẽ ổn thôi. Chừng nào kinh tế còn trụ được, và dân chúng còn có cái để ăn.” Nói thế nhưng thực ra ông đang tự dối mình. Giống như các đồng nghiệp tại Bá Linh hay Leipzig, khi Jakes và cộng sự tại Lâu Đài Praha [trụ sở nhà cầm quyền] hiểu được những gì đang đến với mình thì đã quá trễ.
Trong một tuần, từ khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, một không khí im lặng đáng ngại bao trùm thủ đô Tiệp Khắc. Mọi người đã thấy hình ảnh dân Bá Linh ăn mừng, chụp từ Khải hoàn Môn Brandenburg chỉ cách đó 200 km. Chủ nghĩa cộng sản tại Đông Đức đã sụp đổ. Đảng Cộng sản Đông Đức đã thất bại và đang thương lượng để đầu hàng.
Tuy vậy, các đồng chí tại Praha thì vẫn mơ mộng rằng mình sẽ có thể ở lại, bằng cách nào đó mình sẽ vô nhiễm với “căn bệnh truyền nhiễm”, theo cách gọi của Vasil Bil’ak, người theo phái Stalin kiểu mới trong giới lãnh đạo Tiệp Khắc. Vì vậy, họ không chịu thương lượng với phe đối lập. Ngược lại, họ đặt lực lượng công an chống bạo động và mật vụ StB vào tình trạng báo động toàn phần.
Một báo cáo mật viết ngay sau khi Bức tường Bá Linh đổ, gửi Phó Bộ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh Rudolf Hegenbart, đã mô tả chi tiết việc các lực lượng an ninh chuẩn bị để “bảo vệ trị an, chống lại những phần tử thù địch, phá hoại và các lực lượng phản cách mạng” ra sao. Theo đó, việc tuần tra những khu nhạy cảm ở trung tâm thành phố phải được tăng cường.
Một đồng chí lão thành kể rằng “Chúng tôi sống ở một nơi khác hẳn với phần thế giới còn lại. Chúng tôi ở trong cái cõi của riêng mình”, đồng chí này thú nhận ông chẳng thấy chuyện gì sắp xảy ra, dù tất cả đang chuyển mình trước mắt ông.
Biểu tình và đàn áp
Sinh viên châm ngòi mọi sự.
Thông qua Đoàn Thanh niên Cộng sản (viết tắt là SSM, Liên đoàn Thanh niên Xã hội Chủ nghĩa), giới sinh viên được phép tổ chức một buổi diễu hành đánh dấu 50 năm cái chết của anh hùng Jan Opletal. Thực ra, chính quyền muốn cấm cuộc diễu hành này nhưng không tìm được lý do chính đáng.
Opletal là anh hùng của Cộng hòa Nhân dân Tiệp Khắc. Chế độ cộng sản đã dùng tên anh trong tuyên truyền chống phát-xít suốt 40 năm qua. Anh bị quân Đức bắn chết trong một cuộc biểu tình chống Quốc xã chiếm đóng, ngay sau đó 1.000 sinh viên Tiệp Khắc bị bắt vào trại tập trung và tất cả các đại học bị bãi khóa trong nhiều tháng.
Ba tuần trước ngày diễu hành, công an và đại diện thanh niên SSM đã đồng ý một lộ trình, họ sẽ tránh đi qua trung tâm thành phố và sẽ kết thúc tại Nghĩa trang Quốc gia ở Vysehrad, nơi an nghỉ của Dvorak, Smetana, những danh nhân khác và của Jan Opletal.
Hơn 50.000 người đã tham gia diễu hành trong trật tự. Nhưng, khẩu hiệu được hô to nhiều nhất lại là “Hãy nhớ Mùa Xuân 68!”, “Đả đảo cộng sản!”, “40 năm là quá đủ!” và “Perestroika ngay lập tức!”. Giữa cuộc diễu hành, một biểu ngữ lớn được bung ra, trên ghi câu nói của Gorbachev “Không bây giờ, thì lúc nào?” Công an án binh bất động. Họ để đoàn người tiếp tục.
Theo thỏa thuận với chính quyền, cuộc diễu hành lẽ ra đã chấm dứt tại nghĩa trang, lúc phần lớn người tham dự đã ra về, nhất là những bác cao niên.
5g30 chiều, cuối một ngày mùa đông giá lạnh, một màn sương nhờ nhờ có mùi lưu huỳnh ô nhiễm bao phủ toàn Praha. Một nhóm nòng cốt khoảng 3.000 người, toàn bộ là sinh viên và công nhân trẻ, ở lại nghĩa trang, họ đứng loanh quanh trong cơn lạnh, không làm gì đáng kể.
6g30 tối, vài người trong số hô to: “Tiến về Quảng trường Wenceslas!” Thế là họ quay lại, tiến về trung tâm Praha. Đoàn người băng qua Nhà hát Quốc gia Tiệp Khắc trên Đường Narodni. Ở đây họ đã đối đầu với lực lượng công an chống bạo động đầu đội mũ sắt, tay mang khiên nhựa cứng. Bên cạnh đó là các đội chống khủng bố đội mũ nồi đỏ, tay huơ gậy to.
Sinh viên đồng loạt ngồi xuống giữa đường, và bắt đầu hát. Họ hát quốc ca, những khúc hát ngắn, những bài hit của nhóm Beatles, họ hát bài “Chúng ta sẽ vượt qua!” [We Shall Overcome, bài hát đấu tranh nổi tiếng của phong trào dân quyền Mỹ thập niên 1960].
Pavlina Rousova, sinh viên kinh tế Đại học Charles kể lại: “Chúng tôi hô to: ‘Sinh viên không có vũ khí!’ Chúng tôi chỉ có nến và hoa để tặng công an. Còn họ thì dùng loa quát tháo: ‘Yêu cầu giải tán, về nhà!’, nhưng họ lại chặn đường về của chúng tôi!”
Thật vậy, một đơn vị công an chống bạo động khác di chuyển đến phía sau đoàn biểu tình. Chặn trước, chặn sau, đoàn biểu tình kẹt ở giữa, không thể di chuyển.
Họ tiếp tục ngồi giữa cái lạnh cắt da. Họ co mình trong áo khoác, hoặc ôm lấy nhau cho bớt lạnh và bớt sợ. Họ chờ đợi, họ hát. Trong hai tiếng đồng hồ, họ nhìn chằm chằm vào những đội chống bạo động nấp sau những tấm khiên che.
Thỉnh thoảng một vài sinh viên đứng dậy yêu cầu công an cho họ rời đám đông ra về, nhưng công an phớt lờ yêu cầu của họ. Hiện trường lúc này trông như một cái bẫy.
Vừa sau 9g tối, một chiếc xe thùng của đội chống bạo động xuất hiện phía sau hàng công an dày đặc. Chiếc xe cố tình húc vào đám đông, gây hoảng loạn. Công an tấn công sinh viên, dùng gậy đánh tới tấp trong khi họ chạy tán loạn.
Sinh viên Dasa Antelova, chạy nấp trong một đường hẻm, sau đó thoát được, kể lại rằng: “Máu chảy khắp nơi. Tôi có nghe cả tiếng xương gẫy. Họ nhắm vào người đứng hàng đầu đoàn biểu tình. Họ đánh người không thương tiếc. Họ không cho ai đi đâu hết. Họ mang xe buýt đến bắt hết!”
Chính quyền cũng chẳng buồn che giấu sự đàn áp thô bạo.
Edward Lucas, một nhà ngoại giao Anh, người vừa chứng kiến cảnh công an tấn công sinh viên, đã bị hai nhân viên an ninh áp sát dẫn đi. Khi đang bị dẫn đi thì một nhân viên mật vụ StB mặc thường phục đến đánh mạnh, khiến ông ngã xuống đất bất tỉnh.
Philip Bye, một nhà quay phim phóng sự của hãng Tin tức Truyền hình Độc lập, cũng bị đánh tơi tả.
Khoảng 9g45 tối, bạo động chấm dứt, đột ngột như lúc bắt đầu. Những bạn trẻ bị thương hoặc đổ máu gượng đứng dậy loạng choạng tìm đường về nhà hoặc đến bệnh viện cấp cứu.
561 người bị thương. Khoảng 120 người bị hốt lên các xe thùng mang đi. Trong xe, họ lại tiếp tục bị đánh.
Một thanh niên nằm bất động trên mặt đường trải đá Đường Narodni. Người ta phủ lên anh một chiếc chăn và sau đó xe cứu thương đến mang anh đi.
Quần chúng giận dữ
Đó là lúc cuộc cách mạng tại Tiệp Khắc bước vào giai đoạn mập mờ, nhập nhằng, thêm chút xuẩn động, có không khí như trong tiểu thuyết Kafka và chuyện anh lính Svejk [của Jaroslav Hasek], pha chất trinh thám kiểu John Le Carre.
Tin đồn thường lan nhanh tại thủ đô các nước cộng sản. Quần chúng tin vào tin đồn hơn là tin tức do truyền thông nhà nước rêu rao. Lần này cũng thế.
Chỉ trong vài tiếng, thiên hạ kháo nhau rằng thi thể nằm lại trên Đường Narodni là sinh viên chuyên toán Martin Smid. Tin đồn chủ yếu xuất phát từ ông Peter Uhl, nhà trí thức phản kháng thuộc nhóm Hiến chương 77, người vẫn cung cấp thông tin của phe đối lập cho báo chí phương Tây mỗi ngày.
Một cô gái tự xưng là Drahomira Drazska và cũng xưng là bạn cũ của Martin Smid cho Uhl biết tin về cái chết kia. Uhl lập tức báo cho Đài Phát thanh Châu Âu Tự do, Đài BBC và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Những đài này tường thuật về cái chết của Smid như một sự kiện xác thực.
Dư luận giận dữ nổ ra trên toàn Tiệp Khắc. Chế độ chối rằng không có ai chết trong vụ bạo loạn, và ngày hôm sau trình làng hai người có tên là Martin Smid, cả hai đều sống nhăn. Một trong hai có mặt tại cuộc biểu tình, xuất hiện trên Đài Truyền hình toàn quốc cho thấy mình bình an vô sự. Nhưng, chiêu này cũng chẳng tác dụng gì. Chẳng ai tin những gì cộng sản nói.
Cuối tuần đó, những cuộc biểu tình khổng lồ tự phát đã diễn ra tại Praha với quy mô chưa từng có. Một cổng vòm trên Đường Narodni nơi nhiều thanh niên bị công an đánh không thương tiếc đã trở thành điểm tưởng niệm, thu hút hàng ngàn người ghé thăm. Có người vẽ một cây thập giá trên tường bên cạnh và nhiều người đi ngang đã thắp nến cầu nguyện tại chỗ.
Sinh viên Dasa Antelova kể: “Tin về cái chết đã thay đổi mọi sự, không chỉ với chúng tôi, mà với cả thế hệ cha mẹ chúng tôi nữa. Cha mẹ chúng tôi đã câm nín từ năm 1968, vì sợ bị đàn áp. Nhưng giờ đây, họ cũng phát rồ lên chẳng khác gì giới trẻ. Các mẹ, cả các bà cụ nữa, đều theo sinh viên và công nhân xuống đường. Có thể nói là vui và rất phấn khích, nhưng ai nấy cũng rất quyết tâm.”
Chính quyền không nghĩ ra được cách phản ứng nào khác, ngoài việc cho bắt giam Peter Uhl vì tội phao tin đồn nhảm.
Âm mưu ly kỳ
Chế độ chia rẽ sâu sắc. Câu chuyện về Martin Smid là bằng chứng. Chiến dịch “thanh kiếm và lá chắn” của Đảng trở thành gậy ông đập lưng ông.
Thường thì thuyết âm mưu các kiểu dễ bị bác bỏ, ngay cả tại Trung Âu dưới thời cộng sản, nơi có đầy dẫy các giả thuyết về mưu mô loại này. Nhưng đôi khi cũng có những âm mưu thật đàng sau các giả thuyết kia. Và đây là một vụ tiêu biểu.
Thực ra thì chính cơ quan mật vụ Tiệp Khắc StB đã ngụy tạo ra “cái chết” của Martin Smid nhằm khích động sự giận dữ của quần chúng để từ đó loại bỏ Tổng Bí thư Jakes, cùng với Bí thư Thành ủy Praha, Miroslav Stepan, cũng như các nhân vật bảo thủ cứng rắn khác và thay bằng những nhân vật cải cách theo kiểu Gorbachev.
Nghe thì có vẻ ly kỳ, nhưng đây không phải là kịch bản một phim trinh thám, mà là một âm mưu có thật với chứng cớ chính xác, được tiết lộ qua một cuộc điều tra do nhà nước hậu cộng sản tiến hành.
Kế hoạch này là chiêu thức của tướng Alois Lorenc, trùm mật vụ StB, và một nhóm nhỏ các thành phần cấp tiến trong Đảng. Sau khi quan sát các diễn biến vừa xảy ra tại Ba Lan và Hungary, họ cho rằng cách duy nhất để khống chế phe đối lập là tìm cách thương lượng ở vị trí kẻ mạnh, vào lúc phe đối lập chia rẽ.
Cùng lúc, có một kế hoạch quan trọng khác, mang mật danh “Wedge”, là xâm nhập phe đối lập và tìm ra nhân vật sẵn lòng thỏa hiệp với phe cộng sản cấp tiến.
Toàn bộ kế hoạch quả là loằng ngoằng, dựa trên phán đoán sai, và hoàn toàn không nắm bắt được bản chất cũng như tính cách của phe đối lập Tiệp Khắc. Tuy nhiên, đó là một kế hoạch táo bạo.
Kế hoạch hành động chi tiết được vạch ra khi StB biết sẽ có cuộc diễu hành lớn của sinh viên nhân ngày tưởng niệm Opletal. Nhân vật trung tâm trong màn kịch này là trung sĩ Ludvik Zifcak, một nhân viên StB trẻ, theo lệnh, anh đột nhập vào hàng ngũ sinh viên chống đối ngầm. Với bài bản đúng kiểu “xách động”, anh là một trong những lãnh tụ sinh viên trong cuộc diễu hành tiến về Nghĩa trang Quốc gia. Và khi cuộc diễu hành kết thúc chiều hôm đó, thì anh là một trong những người mạnh miệng hô to “Tiến về Quảng trường Wenceslas”. Anh biết sẽ có một cái bẫy cài sẵn chờ sinh viên đến. Khi bạo động diễn ra anh tìm cách tránh đòn, rồi giả vờ nằm chết trên đường.
Cô gái tên Drahomira Drazska, người sau này cũng lặn mất tăm, là một mật vụ khác. Cô nhận lệnh đưa tin cho Uhl rằng một sinh viên đã chết.
Liên Xô biết được đến đâu về âm mưu này, hoặc nhân vật Liên Xô nào thực sự biết chuyện? Đến nay, đây vẫn còn là dấu hỏi. Vào lúc công an đang đánh đập sinh viên biểu tình tại trung tâm Praha thì trùm StB, tướng Lorenc, đang ăn tối với trùm mật vụ KGB chi nhánh Tiệp Khắc, tướng Gennady Teslenko, và nhân vật số hai của KGB, tướng Viktor Grushko, người vừa đến Praha mấy ngày trước đó.
Lát sau, họ cùng nhau đến tổng hành dinh StB, một tòa nhà kiếng và bê tông xám u ám trên Đường Bartolomejska, không xa Quảng trường Wenceslas. Nhưng ông trùm StB Lorenc vẫn tiếp khách KGB như bình thường. Điều đó cho thấy Liên Xô không can thiệp trực tiếp vào kế hoạch này. Âm mưu dạng này cũng không phải là loại hành động mà những người thân cận với Gorbachev lúc đó đề bạt, vì rủi ro thì quá cao còn mục tiêu thì lờ mờ.
Những kẻ chủ mưu cũng chọn được ứng viên cho vị trí lãnh đạo, đó là ông Zdenek Mlynar [chồng bà Rita Klimova, nói đến ở đầu chương], người mà họ nghĩ sẽ tiến hành các cuộc cải cách kiểu Mùa Xuân Praha và họ sẽ ủng hộ ông. Nhưng ông Mlynar không còn là người cộng sản từ lâu, ông từng sống nhiều năm lưu vong khá thoải mái tại Vienna, Áo, và cũng chẳng muốn dính líu gì đến âm mưu này.
Thật hiếm có âm mưu nào mà lại phức tạp đến thế, tính toán sai đến thế, và thất bại thảm hại đến thế.
Người Tiệp Khắc không nổi dậy để đạp đổ những quá quắt của đường lối Stalin kiểu mới. Mà họ nổi dậy để thoát ách cộng sản, và đặc biệt thoát ách thống trị của người Nga.
Như trung sĩ “xác chết” Zifcak nói, anh và những kẻ tham gia âm mưu kia chỉ muốn cứu vãn chủ nghĩa cộng sản. Nhưng, thay vì cứu vãn, họ đã góp phần làm nó kết liễu nhanh hơn.
Cách mạng từ nhà hát
Trong khi cuộc cách mạng tưởng tượng đang diễn ra trong đầu các ông trùm mật vụ, thì cuộc cách mạng thật lại diễn ra trên đường phố Praha và trong một nhà hát hình hộp gần Quảng trường Wenceslas, có tên là “Đèn Thần”.
Khi xảy ra vụ sinh viên biểu tình bị đánh thì Vaclav Havel đang ở miền quê Bohemia. Ông trở về Praha vào chủ nhật 19 tháng 11. Ông hiểu rằng khi Bức tường Bá Linh sụp đổ thì chế độ cộng sản Tiệp Khắc cũng sắp đến ngày tàn, nhưng không biết ngày tàn đó sẽ đến vào lúc nào và đến ra sao. Nhưng rõ ràng, nó cần một cú hích.
Khi ông trở về thành phố, thì một nhóm bạn gồm các nhà bất đồng, các nhà hoạt động đối lập đã tụ tập sẵn tại căn hộ chật nhưng lịch lãm của ông nằm bên bờ sông, nhìn ra thấy được Lâu Đài, đầu não quyền lực của chế độ.
Các bạn muốn ông đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh. Và từ phút đó, ông giữ vai trò chủ chốt của cuộc Cách Mạng Nhung. Ông không còn là một trí thức hay e thẹn và đầy hoài nghi nữa, mà trở thành một người có quyền lực, mạnh mẽ và quyết đoán. Có thể nói ông là một chiến thuật gia chính trị đáng gờm.
Vào lúc đó, với phần lớn dân chúng Tiệp Khắc, Havel vẫn còn là một cái tên xa lạ. Theo lời tiểu thuyết gia Tiệp Khắc Ivan Klima, người biết Havel trong nhiều năm và không phải lúc nào cũng đồng ý với ông thì “Havel chưa được nhiều người biết đến, hoặc người ta chỉ nghe nói ông là con một nhà tư bản giàu có, cũng đã từng vào tù ra khám. Nhưng lúc ấy, khí thế cách mạng bao trùm cả nước đã khiến quần chúng thay đổi thái độ… Trong không khí hừng hực lúc đó, một cá nhân bỗng trở thành biểu tượng cho cảm xúc của quần chúng và đại diện được cho sự phấn khích của đám đông… Chỉ trong vài ngày, Havel đã trở thành biểu tượng của cách mạng, người sẽ dẫn dắt xã hội ra khỏi khủng hoảng.”
Ưu tiên lớn nhất lúc bấy giờ, theo lời Havel kể với cộng sự, là hình thành một nhóm thống nhất, một tiếng nói có thể đại diện cho phe đối lập, để khi thời cơ đến, có thể thương lượng với chế độ về bàn giao quyền lực trong ôn hòa.
Havel nhấn mạnh, việc đầu tiên là phải hợp sức hủy bỏ chế độ toàn trị. Nếu có bất đồng thì bất đồng sau này trong quá trình xây dựng nền dân chủ.
Havel gọi cho Rita Klimova mời bà làm thông dịch viên cho ông trong một cuộc họp báo với các phóng viên nước ngoài. Đó là một bước khôn ngoan. Havel nói tiếng Anh tốt, nhưng với giọng Tiệp khá nặng, và ông tin rằng bà Klimova, với tiếng Anh giọng New York pha Trung Âu cộng thêm sự hóm hỉnh của bà sẽ chinh phục được các phóng viên phương Tây. Và ông đã không sai.
Ông tuyên bố: “Những lý tưởng mà chúng tôi đã lao tâm khổ tứ trong nhiều năm để theo đuổi, và vì đó mà chúng tôi vào tù ra khám, bắt đầu trở thành hiện thực và thể hiện được khát khao chung của người dân.” Cuối cùng thì người Tiệp Khắc cũng đã bắt đầu thức dậy, thoát khỏi trạng thái trì trệ lâu nay.
Diễn đàn Dân sự
Đầu tiên, họ cần một tổng hành dinh. Hôm trước, các diễn viên kịch tại nhà hát đã tuyên bố đình công cùng sinh viên học sinh. Vì vậy, nhà biên kịch của chúng ta đã có thể “đạo diễn” cuộc đấu tranh của ông từ trong lòng một nhà hát. 10 giờ đêm hôm đó, ông vào ở hẳn trong nhà hát Đèn Thần.
Các suất diễn cho vở kịch kinh điển thể loại biểu hiện The Minotaur của Friedrich Dürrenmatt được hoãn lại trong khi dân Tiệp Khắc xuống đường lật đổ chính quyền.
Đến nửa đêm, mọi người đồng ý với tên gọi mới, Civic Forum, Diễn đàn Dân sự, và đưa ra loạt tuyên bố và yêu cầu đầu tiên.
Diễn đàn Dân sự công bố mình là “người phát ngôn đại diện cho quần chúng Tiệp Khắc vừa trải qua chấn động sâu sắc vì vụ giết hại dã man sinh viên biểu tình ôn hòa.” Thoạt đầu, họ có bốn yêu cầu:
– Yêu cầu các lãnh đạo cộng sản chịu trách nhiệm đè bẹp Mùa Xuân Praha và đàn áp thời kỳ “bình thường hóa” phải từ chức ngay lập tức, trong số có cựu Tổng Bí thư Gustav Husak, và Tổng Bí thư đương nhiệm Milos Jakes.
– Yêu cầu các Bí thư Thành ủy Praha, Miroslav Stepan, các quan chức chỉ đạo cuộc tấn công vào sinh viên hai ngày trước đó phải từ chức.
– Yêu cầu mở một cuộc điều tra chính thức và độc lập về các cuộc biểu tình ngày 17 tháng 11.
– Yêu cầu thả ngay tất cả các tù nhân chính trị.
Ngay sau khi đưa ra yêu cầu, Havel nói nửa đùa nửa thật rằng đây là lúc Nga sẽ xua quân qua Tiệp lần nữa, chỉ khác là, vẫn theo lời Havel, lần này thì Điện Kremlin sẽ đứng về phía ông nhiều hơn là sát cánh với chế độ cầm quyền.
Biểu tình sau giờ làm việc
Sáu ngày sau đó, tối nào cũng vậy, những cuộc biểu tình khổng lồ đã tràn ngập Quảng trường Wenceslas. Hầu hết mọi người sau giờ làm việc là ra biểu tình.
Cũng giống như những gì diễn ra tại Đông Đức, cuộc cách mạng diễn ra trong trật tự và rất lịch sự. Khi các cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đình công để biểu tình thì họ lại sắp xếp thi đấu thêm 90 phút vào chiều chủ nhật, để người hâm mộ không mất trận đấu nào.
Nhạc sĩ Ondrej Soukup nhận xét: “Mỗi ngày trôi qua là một ngày dân chúng cảm thấy mình mạnh mẽ hơn, và đứng thẳng lưng hơn. Tôi có cảm tưởng như tảng đá nặng đè trong lòng suốt 20 năm vừa qua giờ đã được gỡ bỏ. Người Tiệp chúng tôi thấy mình đường hoàng hơn. Chúng tôi đã quá hèn mọn. Nhưng giờ chúng tôi bắt đầu cảm thấy tự hào. Quả là một cảm giác phi thường.”
Công an không động tịnh gì khi đám đông biểu tình mỗi lúc một đông. Vào ngày thứ hai 20 tháng 11, có đến 300.000 người biểu tình, dù trời lạnh như cắt. Thỉnh thoảng tuyết rơi, nhưng tuyết cũng chẳng thể làm nguội bầu máu nóng và lòng khấp khởi hưng phấn của mọi người. Người ta không còn nghi ngại nhau, ngược lại, đó là lần đầu tiên trong hai thập niên họ có kể cho nhau nghe với sự tin cậy về những hy vọng và ước mơ của mình.
Một số diễn văn được đọc lên. Nhưng nhiều hơn nữa là âm nhạc. Ban nhạc rock do nghệ sĩ rất nổi tiếng của Tiệp Khắc, Michale Kocab, một người bạn của Havel, mang cả hệ thống âm thanh đến biểu diễn.
Khi nhạc dứt thì âm thanh nghe được rôm rả nhất chính là tiếng lắc chìa khóa của hàng trăm ngàn người, tiếng lắc leng leng dội quanh quảng trường và lan ra cả trung tâm Praha. Tiếng lắc chìa khóa gửi đến các ông trùm cộng sản thông điệp rằng “Đến giờ rồi! Đi thôi các ông ơi!”
Những cuộc biểu tình khổng lồ tương tự cũng diễn ra tại các thành phố và thị trấn khác trên cả nước, kể cả những nơi như Brno và Ostrava, nơi không hề có hoạt động đối lập chính trị nào trong suốt 20 năm trước đó.
Tại Bratislava, Ủy ban Bảo vệ Người bị Ngược đãi, viết tắt là VONS, tổ chức kết nghĩa của Hiến chương 77, được thành lập từ cuối thập niên 1970 nhưng chỉ có một ít thành viên, nay trở thành chi nhánh trung tâm của Hiến chương 77 tại Slovakia, nơi Alexander Dubcek xuất hiện trở lại như một nhân vật chính trị. Khi ông lên tiếng ủng hộ các cuộc biểu tình tại Quảng trường Wenceslas, hầu như cả thành phố đều hoan hô ông vang dội.
Mùi cách mạng và đồng thuận
Bên trong nhà hát Đèn Thần lúc đó lúc nào cũng vang lên âm thanh rì rào của những hoạt động náo nhiệt. Đám đông trong nhà hát cũng thật đa dạng. Như giáo sư Timothy Garton Ash, người có mặt nhiều giờ để tiếp cận, trò chuyện với nhiều người tại chỗ kể lại thì “căn phòng đầy mùi khói thuốc, mùi mồ hôi, mùi áo choàng ẩm và mùi cách mạng!”
Havel đã khéo léo đưa được những con người thuộc nhiều thành phần có quan điểm hoàn toàn đối nghịch ngồi lại với nhau với một mục đích duy nhất: Loại bỏ chủ nghĩa toàn trị. Có những người theo chủ nghĩa Trosky, có người cộng sản cấp tiến, có các nhà bảo vệ môi trường, bảo vệ nữ quyền, các nhà hoạt động Công giáo cánh hữu, các mục sư Calvin, và các nghệ sĩ nhạc rock với ước muốn đơn giản là được tự do sáng tác thứ nhạc mình thích.
Người thì mặc quần jeans, người thì mặc đồng phục công nhân, cứ thế họ đến Đèn Thần một lúc vào giờ ăn trưa hoặc cuối giờ chiều, trước khi trở lại với công việc kiếm sống của mình.
Cũng nên nhắc lại là rất nhiều người trong số này, vào thời kỳ Mùa Xuân Praha 1968 họ từng là luật sư, là nhà văn có tác phẩm được in, là đảng viên cộng sản, hoặc là giáo sư, giới khoa bảng. Họ bị sa thải khi Mùa Xuân Praha bị đàn áp. Giờ đây, họ hoạt động chính trị bán thời gian trong khi vẫn là công nhân, là thợ điện, là nhân viên văn phòng toàn thời gian.
Một trong những nhân vật hàng đầu của Diễn đàn Dân sự là ông Jiri Dienstbier, một người luôn tươm tất và có khả năng sáng tạo đến bất ngờ. Ông từng là một trong những phóng viên nổi tiếng nhất của Tiệp Khắc, một thông tin viên năng nổ cho hãng tin nước ngoài, cho đến khi ông bị sa thải vào mùa thu 1968. Từ đó, ông làm bảo vệ. Giờ đây, nhiều khi đang họp dở dang ở Đèn Thần ông lại phải đi, vì đã đến giờ đốt lò ở tòa nhà ông làm bảo vệ.
Miệng mạnh, chân chùn
Trước sự kiện đang diễn ra, những người cộng sản Tiệp Khắc chia rẽ trầm trọng.
Tổng Bí thư Jakes, Bí thư thành ủy Stepan và những người Stalin cựu trào như Jan Fojtik thì muốn tiếp tục đàn áp thẳng tay bằng công an mật vụ.
Họ định áp đặt thiết quân luật vào sáng 19 tháng 11. Ban đầu, Bộ trưởng Quốc phòng Jaroslav Vaclavik còn đề nghị dùng “biện pháp quân sự”, điều xe tăng vào những điểm trọng yếu quanh thủ đô, đặt không quân Tiệp trong tình trạng báo động sẵn sàng tác chiến.
Nhưng những biện pháp vừa kể không còn thực tế nữa vào giai đoạn này. Và đã không hề có bất cứ binh sĩ nào được lệnh rời căn cứ trong suốt thời gian diễn ra Cách Mạng Nhung.
Tổng Bí thư Jakes triệu tập một loạt các phiên họp với phe cứng rắn. Họ đưa ra những đe dọa nghe rợn tóc gáy nhưng chẳng được ai thi hành. Jakes tuyên bố: “Phải lấy sức chọi sức! Chúng ta không thể ngồi yên giương mắt nhìn hành vi của các nhóm hoạt động ngoài vòng pháp luật và bị nước ngoài giật dây. Những âm mưu khích động các thành phần thanh niên Tiệp có thể đưa xã hội vào vòng khủng hoảng với hậu quả khó lường!”
Một người Stalin cựu trào sau này kể lại rằng: “Chúng tôi theo dõi những gì vừa xảy ra tại Bá Linh. Giới lãnh đạo Bá Linh ngồi yên không làm gì cả, và ai cũng biết hậu quả ra sao. Vì vậy, một số chúng tôi quyết tâm phải làm gì đó, bằng được.” Quyết thì quyết, cái khó là Đảng Cộng sản Tiệp Khắc lúc này đang tan rã.
Không phải trẻ con
Sáng thứ tư, ngày 22 tháng 11, Tổng Bí thư Jakes quyết định điều động một lực lượng có tên là “Dân Quân” đến dẹp biểu tình. Đây là quân đội riêng của Đảng, hoạt động bán thời gian, gồm 20.000 quân, được tuyển chọn từ những thành phần tuyệt đối trung thành, phần lớn là công nhân nhà máy, được trả lương ngoài giờ hậu hĩnh để tham gia các hoạt động tự nguyện vào cuối tuần và vài buổi tối mỗi tháng.
Lực lượng này không là một phần chính thức của quân đội hay của hệ thống an ninh quốc gia, nhưng họ được cho là sẵn sàng đứng ra bảo vệ những người cộng sản, như một chỗ dựa cuối cùng. Nhưng, lúc này, cả lực lượng dân quân cũng từ chối cứu Đảng.
Bí thư Thành ủy Stepan cố gắng vận động công nhân và dân quân tại một nhà máy thép lớn ở ngoại ô Praha đến dẹp sinh viên biểu tình. Stepan tuyên bố: “Chúng ta không muốn bị một đám trẻ con chỉ đạo.” Nhưng thay vì đồng tình, đám đông đã la lối đáp lại: “Chúng tôi cũng không phải trẻ con!”
Diễn đàn Dân sự kêu gọi một cuộc tổng đình công ngày thứ hai 27 tháng 11, nhưng theo đúng kiểu của người Tiệp, chỉ trong hai tiếng đồng hồ mà thôi. Từ giữa trưa đến 2 giờ chiều.
Cuộc tổng đình công được dùng như một biểu thị để thăm dò sức mạnh quần chúng. Khi có dấu hiệu cho thấy hầu như tất cả mọi công nhân Tiệp đều đồng ý tham gia đình công, thì ý chí của phe bảo thủ già nua trong Đảng tan thành mây khói.
Phó Thủ tướng Marian Calfa ngồi nghe ý kiến của phe cứng rắn, sửng sốt vì họ không còn thực dụng như trước, không còn có phản ứng như thường thấy, và vì họ không dám quyết định. Ông than vãn: “Toàn bộ guồng máy công an và an ninh nằm trong tay chúng tôi. Vậy mà không ai có đủ dũng cảm, đủ nhạy bén, đủ bản lĩnh, nói chung là đủ những gì cần thiết để dùng vũ lực hoặc thuyết phục người khác rằng dùng vũ lực là cần thiết.”
Không nơi nương tựa
Tổng Bí thư Jakes được một quan chức cao cấp từ Điện Kremlin nói thẳng thừng rằng ông không thể chờ mong gì ở các lực lượng vũ trang Xô-viết, cũng không có bất cứ hỗ trợ chính trị nào để Jakes tiếp tục nắm quyền.
Gorbachev đã cử Valeri Musatov, một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong vai trò Trưởng ban Quốc tế Đảng Cộng sản Liên Xô, đến Praha để quan sát tình hình.
Điện Kremlin muốn có thông tin chính xác, vì theo lời Musatov thì vị đại sứ Xô-viết tại Praha, ông Viktor Lomakin, là người cực kỳ bảo thủ, ông ta không có bất cứ quan hệ nào ngay cả với những người cộng sản cải cách, huống hồ là với phe đối lập. Phái viên Musatov nói: “Ông đại sứ chỉ chăm chăm nói chuyện với cái được gọi là ‘nguồn thông tin sạch’, vốn chẳng có giá trị nào trong tình hình lúc đó.”
Không chỉ thế, Musatov còn làm một việc chưa từng có trong tư thế là một quan chức Xô-viết cao cấp, đó là ông đến họp với Diễn đàn Dân sự tại nhà hát Đèn Thần. Đó là một cú đánh trời giáng dành cho Đảng Cộng sản Tiệp Khắc và cho cá nhân Jakes.
Quân đội, cúm cách mạng và đài truyền hình
Trên thực tế, có thể nói phe cứng rắn đã giương cờ trắng đầu hàng vào tối ngày 22 tháng 11, khi Bộ trưởng Quốc phòng Vaclavik tuyên bố trên truyền hình rằng “Quân đội sẽ không chống lại nhân dân. Chúng tôi sẽ không can thiệp.”
Lý do thật rõ ràng: binh sĩ sẽ không tuân lệnh cấp trên nếu được lệnh bắn vào người dân tay không.
Qua từng đêm, các cuộc biểu tình lại càng lớn mạnh. Quần chúng lúc này đi biểu tình vừa như đi giải trí, vừa như đi vì khí thế chính trị dâng trào, dù nhiệt độ tại Praha xuống rất thấp dưới không độ vào ban đêm, và một dịch cúm khó chịu, mà người dân gọi vui là “cúm cách mạng”, đang quấy nhiễu người dân thành phố.
Trong lúc Đảng mất dần khả năng kiểm soát thì đài truyền hình nhà nước lại càng táo bạo hơn. Lần đầu tiên đài cho truyền hình trực tiếp cuộc biểu tình đêm thứ tư, dù rằng phút cởi mở ấy rất ngắn ngủi. Ngay sáng hôm sau, công an đột nhập vào đài, sa thải ban giám đốc cấp cao và đặt một tay chân của Jakes, là Phó Thủ tướng Matek Lucan, làm tổng giám đốc. Nhưng nhân viên trong đài vẫn đòi hỏi phải tiếp tục truyền hình trực tiếp biểu tình.
Một thứ bán-kiểm-duyệt quái lạ được các bên đồng ý như sau: Cuộc biểu tình sẽ được truyền hình trực tiếp, nhưng chỉ trong một lúc, sau đó màn hình sẽ tắt để nhạc nhảy vui nhộn nổi lên, trước khi đài tiếp tục truyền hình trực tiếp biểu tình.
Thực ra kiểm duyệt kiểu đó cũng chẳng có tác dụng. Vì như đã diễn ra tại Đông Đức, hầu hết người dân Tiệp có thể bắt sóng các chương trình nước ngoài, và dù không hiểu tiếng nước ngoài bao nhiêu, họ vẫn biết những gì đang xảy ra.
Xúc động và lạc điệu
Cuộc biểu tình xúc động nhất diễn ra vào thứ sáu, một tuần sau vụ sinh viên bị đánh đập.
Đám đông ước tính lên đến nửa triệu người. Bất ngờ, không báo trước, một người lưng hơi khom, nhưng nhìn thân thiện như một người ông đáng kính, với khuôn mặt đường hoàng, sáng bừng, vẫn còn đẹp so với tuổi 68, xuất hiện tại ban-công nhìn ra quảng trường.
Thoạt đầu, ít người nhận ra ông là ai. Rồi họ biết đó chính là Alexander Dubcek [vị Tổng Bí thư khơi mào cho Mùa Xuân Praha 1968, sau đó bị cộng sản thanh trừng] ông vừa từ Bratislava đến Praha buổi sáng hôm đó.
Thế là đám đông gào thét vỡ òa: “Dubcek na hrad, Dubcek na hrad” (“Dubcek về Lâu Đài” có nghĩa là “Chọn Dubcek làm Tổng thống”).
Đó là lúc người hùng của Mùa Xuân Praha tận hưởng giây phút được khẳng định mình, được quần chúng vinh danh. Ông quay sang ôm một người khác cũng có mặt tại ban-công và cũng được quần chúng hò reo chào đón, Vaclav Havel.
Có thể nói đó là một đêm say mê và đầy kịch tính. Dubcek nói năng cứ như hai thập niên qua chưa hề tồn tại, về chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người. Ông nói: “20 năm trước, chúng ta tìm cách cải thiện chủ nghĩa xã hội, làm cho nó tốt đẹp hơn. Trong những ngày tháng đó, quân đội và công an đứng về phía nhân dân, và tôi tin chắc hôm nay điều đó sẽ xảy ra lần nữa.” Quần chúng vỗ tay đáng kể nhưng không sôi nổi như lúc ông xuất hiện.
Nhạc sĩ Ondrej Soukup kể rằng: “Chúng tôi không nghĩ ông ấy vẫn còn là cộng sản. Cũng không thất vọng lắm đâu, dù sao ông cũng là người hùng vì dám đứng lên chống lại ách thống trị của người Nga. Nhưng vào thời điểm này, chúng tôi không tin cộng sản nữa, không muốn nghe ai rêu rao là nếu gặp điều kiện thuận tiện, chủ nghĩa cộng sản sẽ vĩ đại ra sao nữa.” Nhưng đó lại là những gì Dubcek nói trong đêm đó.
Khoảng một giờ sau khi xuất hiện trước công chúng, Dubcek và Havel cùng có mặt trong cuộc họp báo tại nhà hát Đèn Thần.
Một quan sát viên nhận xét rằng vị cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tiệp Khắc như vừa bước ra từ một bức ảnh trắng đen cũ kỹ, nói năng những điều cũ kỹ. Ông cứ nói về “khả năng có thể sửa đổi của chủ nghĩa xã hội nếu chúng ta biết tránh xa những sai lầm của nó!”
Havel có vẻ không thoải mái, các nhân vật khác của Diễn đàn Dân sự cũng không thoải mái trước quan điểm của Dubcek. Havel nói: “Chủ nghĩa xã hội là một cụm từ đã mất hết ý nghĩa tại đất nước chúng ta. Cứ nghe tới chủ nghĩa xã hội là tôi liên tưởng đến những nhân vật kiểu Tổng Bí thư Jakes!”
Vừa dứt lời thì một thanh niên mặc quần jeans áo thun đi lên sân khấu, nói nhỏ vào tai Havel và Dubcek, hai ông nghe xong bèn nhìn nhau cười. Tin tức đã được loan đi là Tổng Bí thư Jakes và toàn bộ hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã từ chức.
Tiếng hoan hô vỡ òa điếc cả tai. Ai đó đưa ra một chai rượu Sekt. Dubcek ôm lấy Havel, và Havel nâng ly nói “Nước Tiệp Khắc tự do muôn năm!” Họ uống một hơi cạn ly.
Không một ai trong phòng cầm được nước mắt.
Rocker và Thủ tướng
Các sĩ quan mật vụ StB cao cấp và thành phần ôn hòa trong giới lãnh đạo Đảng cũng tìm mọi cách để thương lượng với phe đối lập.
Thủ tướng Ladislav Adamec, 63 tuổi, người nổi tiếng nhất trong những người cộng sản cấp tiến, chính là người thương lượng với Havel để đưa ra cái kết cho chủ nghĩa cộng sản Tiệp Khắc.
Họ biết mình không thể cứu vãn chế độ, thật ra họ cũng chưa từng tin tưởng chủ nghĩa mà họ đã rêu rao suốt bao nhiêu năm trời.
Có thể nói, Thủ tướng Adamec trước hết là một người mê sự nghiệp, thứ hai là người hay hoài nghi, và thứ ba mới là người cộng sản, mà không phải là kẻ ác. Ông và nhóm thân cận muốn tự bảo vệ mình, nhất là khỏi bị trừng trị nếu phe đối lập lên nắm quyền.
Trước hết, những cuộc thương lượng diễn ra trong bí mật. Adamec không muốn đồng nghiệp biết mình đang nói chuyện với Diễn đàn Dân sự.
Havel cũng chỉ muốn công khai khi biết mình đang thương lượng với đúng người cần gặp và chắc chắn hai bên có thể đạt được thỏa thuận. Vì vậy, Havel dùng một người đại diện là nhạc sĩ sáng tác Michael Kocab, một người bạn thân, đã gặp Adamec vài lần và biết gia đình ông.
Kocab cao khẳng khiu, 35 tuổi, là ngôi sao nhạc rock nổi tiếng nhất Tiệp Khắc. Kocab từ trước đến giờ tuy không quá công khai đã bày tỏ thái độ chính trị, nhưng vẫn tìm được cách để mọi người biết mình cảm nhận thế nào về chế độ. Ông đã khéo léo sống trong vòng pháp luật và ngoài vòng lao lý.
Kocab kể: “Cả hai bên biết cần phải thương lượng, nhưng đều muốn đưa ra những thỏa thuận cơ bản trước đã.” Buổi gặp gỡ đầu tiên, trong vòng bí mật, diễn ra một ngày sau khi Diễn đàn Dân sự ra đời ngày 20 tháng 11. Kocab kể tiếp: “Thật lạ lùng là người ta cần đến một nhạc sĩ để bôi trơn cỗ máy thế này, nhưng đây là Tiệp Khắc mà! Khi Havel biết những người cộng sản sẵn sàng thương lượng, ông hiểu ngay thời của cộng sản đã hết rồi. Nhưng ông vẫn muốn biết họ nghiêm túc đến đâu. Adamec rõ ràng là muốn tiếp tục giữ một vai trò nào đó trong chính trị Tiệp Khắc, và việc nói chuyện với Havel là cách duy nhất để Adamec đạt mục tiêu này.”
Kocab gặp kín nhóm cộng sản cấp tiến vài lần. Ông sắp xếp để hai bên gặp chính thức vào chủ nhật 26 tháng 11, và cuộc họp đã diễn ra với một nghi thức khá khôi hài: Havel và Adamec, cả hai đều cười gượng gạo, ngồi đối diện nhau tại một chiếc bàn đông người, trong căn phòng chật chội, đầy khói thuốc. Hai người đứng lên gần như cùng lúc, với cùng suy nghĩ. Rồi Havel nói: “Chào ông, ta chưa gặp nhau bao giờ, tôi tên Havel.” Adamec đáp: “Chưa, chưa bao giờ. Tên tôi là Adamec.”
Vài ngày sau, thương lượng nghiêm túc về việc chuyển giao quyền lực trong ôn hòa đã diễn ra, trong khi đám đông khổng lồ vẫn tiếp tục chiếm ngự đường phố Praha.
Trong hai tuần tiếp theo, những người cộng sản hứa sẽ tổ chức bầu cử tự do vào mùa xuân sắp tới. Họ cũng hủy bỏ “vai trò lãnh đạo của Đảng” cũng như hầu hết các nguồn tài lực mình nắm giữ, và Husak cũng từ chức Chủ tịch nước.
Adamec tìm cách vớt vát một vị trí nào đó cho sự nghiệp của mình nhưng đã thất bại thảm hại. Vì đám đông đã trở nên vô cùng lớn, các cuộc biểu tình được chuyển từ Quảng trường Wenceslas tới Công viên Letna, ngay cạnh trung tâm thành phố.
Adamec xuất hiện ngay cuộc biểu tình đầu tiên tại công viên, vào đêm trước khi các cuộc thương lượng bắt đầu. Trước đó, ông đã tự thêu dệt mình như một nhà cải cách vĩ đại, vì vậy, quần chúng hoan hô ông nhiệt liệt trước khi ông bắt đầu nói.
Câu đầu tiên, ông tuyên bố chính quyền đã chấp nhận các yêu sách của Diễn đàn Dân sự, và ông được hoan hô tưng bừng. Nhưng rồi ông bắt đầu “nhưng, nhị”, nói tới các các điều kiện này kia. Trên thực tế thì ông không hề hứa hẹn điều gì, và như ngựa quen đường cũ, ông bắt đầu dùng ngôn từ Mác-Lê khi diễn thuyết. Ngay lập tức, ông bị quần chúng la ó phản đối kịch liệt, đến độ ông phải rời bục phát biểu và được đưa đi ngay để bảo tồn tính mạng.
Khởi đầu mới
Mặc dù Havel không có vai trò gì chính thức nhưng trên thực tế, thành phần chính quyền mới được công bố vào ngày 7 tháng 12 là do ông lựa chọn.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ là nhà bất đồng chính kiến người Slovak, cũng là nhà vận động dân quyền, ông Jan Carnogursky, công việc mới của ông là chỉ huy sở mật vụ, dù chỉ vài ngày trước đó ông còn bị giam giữ ở ngay sở mật vụ.
Bác nhà báo kiêm bảo vệ Jiri Dienstbier thì được chọn làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Vị trí Thủ tướng thuộc về Phó Thủ tướng của chế độ cộng sản cũ, ông Marian Calfa. Havel giải thích rằng đất nước Tiệp Khắc cần một số người có kinh nghiệm điều hành chính quyền, cũng như cần một số trí thức. Havel nói “Calfa làm được việc” trong khi cộng sự của Havel tỏ vẻ nghi ngại.
Havel dễ dàng đánh bại Dubcek để được chọn vào ghế Tổng thống. Thực ra thì cũng chẳng có một cuộc đọ sức nào đúng nghĩa giữa hai ông. Vì ngay từ đầu tháng 12, khi các chiến thuật gia của Diễn đàn Dân sự bắt đầu tính toán đến ứng viên tiềm năng thì gần như không có bất cứ tranh cãi hay bất đồng nào. Kể cả người theo phái Trosky, Petr Uhl, và người Công giáo bảo thủ, Vaclav Benda, cũng đều nói một điều như nhau, gần như cùng lúc: “Phải là Vaclav Havel thôi.”
Dubcek tuy được đông đảo quần chúng kính trọng, nhưng càng lúc càng có vẻ lỗi thời. Ông trở thành phát ngôn viên Quốc hội.
Có thể nói vui rằng Havel đã điều động cuộc cách mạng, và cuộc chuyển giao quyền lực ngay sau đó, giống như điều động một vở diễn lớn trên sân khấu chính trị.
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
Categories: Những cuộc cách mạng ở Đông Âu, Thế giới
Tags: Cách mạng Nhung, Hiến chương 77, Mùa Xuân Praha, Vaclav Havel