Lời biện bạch cho vinh quang
Th12 13, 2012
Phạm Thị Hoài
Tài năng của Mạc Ngôn hẳn không nằm ở lĩnh vực viết diễn từ, nhất là diễn từ Nobel.
Trước khi đến lượt ông, áp lực của vinh quang tột đỉnh cũng đã biến nhiều nhà văn xuất sắc thành những diễn giả nhợt nhạt tại Stockholm. Sau Stockholm nhiều người chuyển nghề, từ nghề văn sang nghề chủ nhân Giải Nobel – hãy nhìn Wole Soyinka, Günter Grass, Imre Kertész… Khả năng sự nghiệp của một nhà văn được Giải Nobel chấm dứt ở Thụy Điển là khá lớn – hãy nhìn Hemingway, Alexander Solzhenitsyn, Octavio Paz, thậm chí Samuel Beckett…
Song Mạc Ngôn còn gánh thêm những áp lực khác mà trong suốt lịch sử của giải thưởng này không một đồng nghiệp nào của ông, kể cả nhà văn Xô-viết Mikhail Sholokhov, phải chịu: áp lực từ chính Giải Nobel dành cho ba người Trung Quốc khác, trong đó hai người phải sống lưu vong và một người đang ngồi tù: Đức Dalai Lama, nhà văn Cao Hành Kiện và nhà văn Lưu Hiểu Ba; áp lực từ cương vị Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc của ông, từ vụ tung hô Mao Trạch Đông, từ những phát ngôn bênh vực cho chế độ kiểm duyệt tại Trung Quốc… Trong hoàn cảnh khó mở miệng nhưng không thể “mạc ngôn” này, công thức đã giúp ông lách qua mọi chướng ngại vật ở Trung Quốc – 1/3 hiện thực, 1/3 huyễn giác huyền ảo, 1/3 ẩn dụ tùy cách hiểu – không hoàn toàn đem áp dụng được. Bài diễn từ nhan đề “Những người kể chuyện” của ông theo công thức mới: 1/3 hiện thực, 1/3 ẩn dụ và 1/3 biện luận. Kết quả là một sản phẩm vô thưởng vô phạt đến quá nửa, kể lể về bản thân, điểm xuyết bằng những nhận định không lấy gì làm độc đáo về bản chất cũng như sứ mệnh của văn chương, để cuối cùng thanh minh cho chỗ đứng của tác giả trước những chỉ trích mạnh mẽ, đặc biệt từ nhiều đồng nghiệp và đồng bào nổi tiếng. Thông điệp từ sự khổ sở dài lê thê này có thể tóm tắt như sau: Ừ thì hoàn cảnh phức tạp nhưng tôi chỉ là một người kể chuyện thôi mà, và tôi thấy mình cũng xứng đáng đấy chứ, thôi các vị đừng làm ồn lên nữa. Ông là chủ nhân Giải Nobel Văn chương đầu tiên phải biện bạch cho vinh quang của mình.
Đầu tiên ông kể về thời thơ ấu cơ cực, một đề tài đã được đào đến gãy cán bút của nhà văn mọi quốc gia. Rồi bà mẹ chất phác nhưng đầy nhân hậu và thấu tỏ lẽ đời của ông xuất hiện tất yếu trên cái nền tăm tối đó và ông dựng cho bà một đài tưởng niệm[1]. Rồi định mệnh lại xui khiến một người kể chuyện ghé qua chợ làng và đánh thức trí tưởng tượng của ông, chưa kể việc ông cũng là một trong những hậu duệ của Bồ Tùng Linh. Hơi nhiều khuôn đã đúc đến lần thứ bao nhiêu cho đường đến văn học của một cậu bé lam lũ thất học. Rồi làng Cao Mật xuất hiện, và ông tiết lộ làng này có chứng nhận kết nghĩa với Yoknapatawpha County và Macondo. Đến đây bầu kiên nhẫn của tôi đã vơi trông thấy và cạn hẳn ở phần tiếp theo, bài giảng Mo Yan for Beginners với cả chục tác phẩm. Song diễn giả vốn là một nhà kể chuyện hấp dẫn này không bỗng nhiên đem sự tẻ nhạt dài hơi ra hành hạ. Ông hành hạ có phương pháp. Có chiến thuật. Chắc phải dựa trên binh pháp Tôn Tử, cái gì đó “lừng khừng như rừng rậm”, cái gì đó “bớt lửa dưới nồi”, để rồi xùy ra chiêu tự vệ vào lúc tất cả đã ngủ gật.
Ông nói rằng mình không sợ lên án những mặt tối của xã hội, mà e rằng bức xúc và phẫn nộ chỉ khiến chính trị quay ra đàn áp văn chương và biến tiểu thuyết thành phóng sự về các vấn đề xã hội. Rằng với tư cách là một thành viên của xã hội thì tiểu thuyết gia tất nhiên có quan điểm và cách nhìn riêng, nhưng khi viết thì phải tuân theo quan điểm nhân văn chung và chỉ như vậy mới vượt ra khỏi khuôn khổ của những sự kiện nhất định và vượt lên chính trị, vĩ đại hơn chính trị. Rằng ông thấu hiểu bản chất của con người, trong người nào Thiện và Ác, đúng và sai cũng trộn lẫn, khó lòng phân biệt, đó chính là nơi thử thách tài năng, khiến nhà văn vượt qua chính trị và đạt đến tầm thượng thừa trong văn học. Nói ngắn gọn: Các vị muốn gì nào? Tôi sáng tạo ra thứ văn học đích thực, văn học vĩnh cửu, vượt ra ngoài chính trị nhất thời.[2] Hơi nhiều “vượt qua chính trị” cho một người muốn ngăn chặn nguy cơ chính trị đàn áp văn chương.
Và cũng vượt ra ngoài thị phi phù phiếm. Những điều tiếng xung quanh giải thưởng này chẳng liên quan gì đến ông, ông chỉ sắm vai người đi xem kịch. Xem vị tân khôi nguyên được tặng hoa, ném đá và té bùn rồi bình thản mỉm cười chùi bùn bẩn, nhẹ nhàng kể khuyến mại cho cử tọa ba câu chuyện.
Chuyện thứ nhất kể về một học trò không chịu khóc vờ như cả lớp, trong đó có Mạc Ngôn, khi đi xem một triển lãm về tình cảnh khổ đau của nhân dân Trung Quốc (hẳn là trong những chế độ trước). Mạc Ngôn và nhiều học trò khác đem việc đó ra mách thầy, cậu học trò kia bị kỉ luật. Sau này Mạc Ngôn ân hận, xấu hổ và hiểu ra rằng: Nếu mọi người đều khóc thì ít nhất nên có một người không khóc. Và nhất là khi tất cả khóc vờ thì càng nên có một người không chịu khóc theo.
Chuyện thứ hai kể về một tình huống giữa Mạc Ngôn khi là lính trong quân đội với một sĩ quan chỉ huy. Một thời gian dài ông tự thấy mình dũng cảm, dám hiên ngang đối đáp và làm cấp trên bẽ mặt. Sau này ông lại tự trách mình đã xử sự như vậy[3].
Chuyện thứ ba kể về tám người thợ hồ tránh bão trong một tu viện cổ. Bão ngày càng mạnh. Họ bảo nhau rằng chắc một người trong số họ đã phạm tội gì xúc phạm đến trời đất, vậy người đó phải ra mà chịu hình phạt để những người vô tội được yên lành. Nhưng không ai tự nhận mình là kẻ tội đồ. Họ bàn nhau vứt hết mũ rơm ra ngoài. Mũ ai bị cuốn đến cổng ngoài thì kẻ đó chính là thủ phạm. Quả nhiên bảy chiếc mũ trụ lại, một chiếc bị gió cuốn ra cổng. Bảy người hè nhau tống được thủ phạm ra ngoài. Đúng lúc ấy tu viện sụp đổ.
Bài học từ chuyện thứ nhất: không chạy theo khuôn mẫu tập thể không hẳn là xấu như ta đã tưởng, mà có khi là cần thiết, nhất là khi khuôn mẫu ấy giả tạo. Từ chuyện thứ hai: làm cấp trên bẽ mặt không hẳn là dũng cảm như ta đã tưởng, mà có khi là không nên. Từ chuyện thứ ba: họa của người không hẳn là phúc của ta, nhất là khi ta bắt người phải hứng họa, và người tính không bằng trời tính.
Tôi phải nhận là mình không có duyên với những sự thâm thúy bỏ túi rất phổ biến trong văn học Trung Quốc và Việt Nam từ cổ đến tận kim như thế. Trong các tác phẩm của Mạc Ngôn chúng được dùng hết công suất, đó là một trong những lí do khiến tôi không có nhu cầu đọc nhiều hơn ba tác phẩm của ông. Tôi cho đó là một thủ pháp dễ dãi, dù người sử dụng nó hẳn rất đắc chí về sự khôn ngoan của mình. Tôi không thích những tác giả khôn ngoan, ghét những tác giả khôn ranh và thậm ghét những tác giả khôn lỏi. Chiếc cửa hậu của đạo đức mà Mạc Ngôn để hé cho mình trong câu chuyện thứ nhất lộ ra nét khôn lỏi ấy.
Ai muốn hiểu thế nào thì hiểu, ông chỉ là một người kể chuyện thôi mà. Và nhiều chuyện tuyệt vời đã diễn ra sau khi ông được trao giải, khiến ông thêm vững tin vào sự tồn tại của sự thật và công lí, Mạc Ngôn kết thúc diễn từ Nobel của mình như thế. Một blogger Trung Quốc bình luận: Người nói ra sự thật trần trụi thì vào tù. Người gói sự thật vào những câu chuyện hư cấu thì được trao giải.
Ngày này năm sau, một nhà văn khác sẽ đứng ở chỗ ông đang đứng. Nhưng cuộc đời ông đã chọn là ở Trung Quốc. Phần còn lại của nó dài hơn mấy chục phút vinh quang ở Stockholm, cái vinh quang mà ông phải dùng rất nhiều lời để biện bạch.
© 2012 pro&contra
[1] Tôi cứ tưởng đài tưởng niệm của Orhan Pamuk dành cho chiếc va-li của cha mình là đỉnh cao của sự nhàm chán mà Stockholm có thể chịu đựng. Nhưng tôi đã nhầm.
[2] Viết đến đây, tôi bất giác nhớ đến tuyên bố của Tập Cận Bình ở Mexico vài năm trước: “Có một số người ngoại quốc bụng thì béo, rỗi hơi không biết nên làm gì ngoài chỉ trích chúng tôi. Thứ nhất, Trung Quốc không xuất khẩu cách mạng; thứ hai, không xuất khẩu nghèo đói; và thứ ba, không làm chuyện lùm xùm gì với các vị. Thế còn có gì mà nói nữa nào?”
[3] Chuyện này có thể coi là phiên bản khác của giai thoại mà Mạc Ngôn ưa kể về thái độ của Beethoven và Goethe trước vua Phổ. Hồi trẻ ông ngưỡng mộ sự cương trực của Beethoven, sau này ông thấy chính sự năng nhẫn của Goethe mới là dũng cảm.
Categories: Trung Quốc, Văn học, Văn nghệ và Chính trị
Tags: Diễn từ Nobel, Mạc Ngôn