Tác giả

Chuyên mục

Trang

Phỏng vấn một đảng viên thoái Đảng

Th11 19, 2018

Phạm Thị Hoài thực hiện

Phỏng vấn này được thực hiện qua thư điện tử, với một người bạn sống ở Việt Nam, từng cộng tác với tôi ở cả hai giai đoạn làm báo, talawaspro&contra, bút danh La Thành.

Phạm Thị Hoài: Tôi còn nhớ, nhiều năm trước khi chúng ta đang làm việc chung cho talawas, tôi đã rất bất ngờ khi bạn cho biết bạn là đảng viên. Bạn vào Đảng trong hoàn cảnh nào?

La Thành: Vào sát thời điểm tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi nộp đơn thi vào một trường đại học kỹ thuật của quân đội, một cơ sở đào tạo sau bậc phổ thông mà lâu nay vẫn được xếp vào hàng các trường “trọng điểm” của khối đại học công lập. Đó là những năm cuối cùng của giai đoạn lịch sử được gọi là “thời bao cấp”, trước thời kỳ Đổi Mới. Sức cuốn hút của hình ảnh các sinh viên đại học mặc quân phục, sự khác biệt trong thủ tục sơ tuyển (về sức khỏe, lý lịch và học lực) đã là những yếu tố quyết định sự lựa chọn đầu đời này của tôi lúc đó, một thiếu niên có tâm hồn lãng mạn, nhìn cuộc sống chủ yếu qua ô cửa sổ các cuốn tiểu thuyết văn học cổ điển, báo Thiếu Niên và báo Tiền Phong.

Hai mươi phần trăm thời lượng đào tạo của khóa học dài 5 năm được dành cho các môn học về chính trị và quân sự đã ít nhiều nhồi vào đầu óc tôi những luận điểm chính thống về hệ thống chính trị – xã hội mà tôi đang sống trong đó. Tôi được biết rằng ở Việt Nam, nơi đã ra đời “nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”, các lực lượng vũ trang được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp – tuyệt đối – về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này liên quan trực tiếp đến câu khẩu hiệu về mục tiêu đào tạo của nhà trường, “KỸ SƯ – SĨ QUAN – ĐẢNG VIÊN”, được căng kẻ khắp nơi trong khuôn viên của trường. Tuy nhiên, kiểu tính cách của tôi không phù hợp để tôi đạt được trọn vẹn cả ba mục tiêu này vào thời điểm tôi ra trường.

Tôi trải qua ba đơn vị quân đội trước khi quay trở lại đúng cái alma mater của mình để làm giảng viên ở một bộ môn khoa học, vào lúc tôi đã đeo lon đại úy song vẫn chưa có đảng tịch. Chi bộ của bộ môn, mà một nửa trong số họ vốn là những người thầy cũ của tôi, lập tức cử người theo-dõi, giúp-đỡ để phát-triển-Đảng cho tôi (các từ in nghiêng là những thuật ngữ rất chuẩn mực của môn khoa học mà cụ đương kim lãnh tụ số một của đất nước đang là sư phụ). Đối với họ, việc một giảng viên đại học kiêm một sĩ quan quân đội phải vào Đảng là chuyện đương nhiên, miễn thảo luận: ít nhất, nó có lợi cho xu hướng thăng tiến mặc định vào thời điểm đó của tôi, cũng như cho số liệu thống kê “thành tích phát triển Đảng” của đảng bộ đơn vị.

Tôi được phân công số giờ giảng nhiều nhất trong bộ môn, cùng một vài công tác phong trào khác. Cuối năm đó, tôi được bầu làm “chiến sĩ thi đua” và được giới thiệu để chi bộ làm thủ tục kết nạp vào Đảng.

Phạm Thị Hoài: Nhưng từ nhiều năm nay bạn đã thầm lặng thoái Đảng. Đảng viên có những cách nào để ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam?

La Thành: Về bản chất, sự gia nhập Đảng của mỗi cá nhân là một quá trình đồng thời công nhận lẫn nhau giữa cá nhân đó và tổ chức Đảng, trong khi sự ra khỏi Đảng của một đảng viên là một quá trình ngược lại: sự bất cầnkhông công nhận của một trong hai bên hoặc cả hai bên với nhau.

Như vậy, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách thụ động khi Đảng (được đại diện bởi phân bộ Đảng trực tiếp quản lý) giành quyền chủ động khai trừ đảng viên ấy ra khỏi Đảng và xóa tên khỏi danh sách đảng viên của phân bộ, mặc dù đảng viên ấy chưa từng bộc lộ biểu hiện bất cần Đảng. Điều này thường xảy ra đối với các đảng viên phạm pháp hình sự và bị khởi tố, hoặc các đảng viên có những vấn đề nghiêm trọng về đạo đức theo các tiêu chí của Đảng. Hiếm hoi hơn, đó là khi người đảng viên nảy sinh mâu thuẫn với Đảng trong phạm trù chính trị – tư tưởng, mặc dù chưa hoặc không có nguyện vọng ra khỏi hàng ngũ Đảng nhưng vẫn bị Đảng chủ động khai trừ. Một trong các thí dụ nổi tiếng của trường hợp này là sự kiện tướng Trần Độ bị thu hồi đảng tịch.

Ở chiều ngược lại, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách chủ động khi có ý chí loại bỏ các giá trị – lý luận hoặc thực tiễn, hoặc cả hai – của Đảng khỏi cuộc sống của mình, bằng cách này hay cách khác. Trong tình huống này, người đảng viên chủ động bỏ Đảng có hai cách lựa chọn: công khai viết đơn xin ra khỏi Đảng hay tuyên bố từ bỏ đảng tịch một cách chính thức, hoặc lặng lẽ bỏ sinh hoạt đảng.

Phạm Thị Hoài: Cách của bạn như thế nào?

La Thành: Từ nhiều năm nay, tôi đã bỏ không sinh hoạt đảng. Khi chuyển công tác khỏi đơn vị, tôi được Ban Tổ chức của đơn vị (tức bộ phận Đảng vụ) viết phiếu chuyển sinh hoạt đảng, đồng thời giao lại cho tôi bộ hồ sơ đảng viên của tôi. Tôi mang bộ hồ sơ về nhà và cho vào két sắt. Mọi người nói đùa rằng làm như thế là “gia nhập quần chúng chui”.

Phạm Thị Hoài: Vì sao bạn chọn cách đó?

La Thành: Thực ra, lúc đang còn trong quân đội, trong một lần sinh hoạt chi bộ hàng tháng, tôi đã từng đề xuất khả năng tôi xin ra khỏi Đảng, nhưng ngay lập tức, các vị “đàn anh” trong chi bộ lúc ấy chặn ngay: “Cậu muốn ra khỏi Đảng, đi chỗ khác mà ra. Cậu ra ở đây ảnh hưởng đến nhiều người.” Quả thật đó là một thực tế, vì nếu tôi xin ra khỏi Đảng một cách chính tắc, năm đó cái chi bộ mà tôi là thành viên chắc chắn sẽ mất danh hiệu “Chi bộ Trong sạch Vững mạnh”. Một số đảng viên sẽ không được công nhận các danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua” hay “Chiến sĩ Quyết thắng”. “Điểm thi đua tích lũy” của các đảng viên còn lại trong chi bộ có thể bị ảnh hưởng; đó là một hình thức số hóa công trạng, sẽ được tham chiếu khi phân nhà, chia đất, khi xét tặng các loại huân chương, huy chương, kỷ niệm chương theo niên hạn… Sau nhiều thập kỷ cai trị, hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc huấn luyện để các cán bộ nòng cốt của nó cả đời chỉ bận bịu tự sỉ nhục mình theo cách đó mà không thể ngẩng đầu lên để nhìn thấy những thứ khác…

Tóm lại, tôi lựa chọn phương án “gia nhập quần chúng chui”, một mặt để không ảnh hưởng tới các đồng nghiệp cũ của tôi, mặt khác vì tôi tự xác định tôi không phải là một đảng viên thuộc loại “nhân vật của công chúng”, việc tôi công khai ý nguyện từ bỏ Đảng sẽ không làm xói mòn bao nhiêu “sức đề kháng” của nó, trừ phi đã bắt đầu xuất hiện một phong trào bỏ Đảng rầm rộ, mà điều này thì rõ ràng là chưa xảy ra.

Phạm Thị Hoài: Theo bạn ước tính, tỷ lệ đảng viên bỏ Đảng hiện ở mức nào?

La Thành: Như đã phân tích ở trên, cụm từ “bỏ Đảng” thực ra chỉ dành cho các đảng viên có ý chí ra khỏi Đảng một cách chủ động, khi giành quyền loại bỏ các giá trị lý luận và thực tiễn của Đảng ra khỏi cuộc sống của mình. Như vậy, đảng viên bỏ Đảng đều ít nhiều là những nhà bất đồng chính kiến. Họ có thể là các công chức hoặc thành viên lực lượng vũ trang tự chuyển khỏi khu vực nhà nước vì những lý do khác nhau, hoặc là một bộ phận trong những người về hưu. Chưa từng có thống kê chính thức, song tôi cho rằng ở thời điểm hiện nay, con số đảng viên chủ động bỏ Đảng có thể đến vài chục ngàn, và như vậy mới chỉ vào khoảng xấp xỉ 1% trong tổng số bốn triệu đảng viên của Đảng.

Phạm Thị Hoài: Bỏ Đảng chắc chắn là việc khó. Khó tới mức nào?

La Thành: Theo nhìn nhận của tôi, đối với các “nguyên đảng viên” chủ động bỏ Đảng, việc ly khai các giá trị của Đảng đồng nghĩa với việc tự loại bỏ các khó khăn về tinh thần ra khỏi cuộc sống của mình. Tôi chưa từng quan sát thấy đảng viên nào lựa chọn buông bỏ các giá trị của Đảng kèm theo những mất mát lớn trong đời sống vật chất trước đó của họ.

Phạm Thị Hoài: Còn khoảng cách thực tế giữa việc chia tay Đảng trong tư tưởng và công khai tuyên bố bỏ Đảng?

La Thành: Khoảng cách đó, theo tôi nghĩ, tỷ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của người đảng viên bất đồng chính kiến, và điều này thường tương đồng với cấp bậc của người đó trong hệ thống đẳng cấp của Đảng. Đối với các đảng viên cấp thấp, “chia tay Đảng trong tư tưởng” hay tuyên chiến công khai với tấm thẻ Đảng không khác nhau nhiều. Trong khi đó, đối với các đảng viên cao cấp và/hoặc nổi tiếng như Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Mạc Văn Trang hay nghệ sĩ Kim Chi, công khai hành động chia tay đội ngũ Đảng rõ ràng là có tiếng vang hơn nhiều so với khi họ “áo gấm đi đêm”, một khi truyền thông và mạng xã hội không thể thờ ơ với động thái này của họ.

Phạm Thị Hoài: Nhưng những đảng viên âm thầm thoái Đảng, họ có thực sự làm giảm sức mạnh của Đảng không?

La Thành: Câu trả lời của tôi là “không”.

Phạm Thị Hoài: Đảng không thực sự coi đó là một nguy cơ đáng kể hay sao?

La Thành: Đảng số của Đảng Cộng sản Việt Nam, như mọi đảng toàn trị đã từng hoặc đang tồn tại trên thế giới, là một con số thuần túy hình thức, không có giá trị đo đếm sức mạnh ý chí hoặc đạo đức của Đảng. Sau hơn nửa thế kỷ cai trị trong điều kiện toàn trị, Đảng đã hoàn thiện một hệ thống chính trị thiên về hình thức, với bản chất là quyền lực chỉ tập trung ở bộ phận trung ương của nó, mà các đảng viên ở bộ phận này hầu như không bao giờ bỏ Đảng, trừ một vài trường hợp hết sức hiếm hoi không đáng kể. Các đảng viên tầm trung và tầm thấp hoặc bám vào hệ thống chính trị đó như các động vật ký sinh, hoặc từ giã hệ thống này vì lý do nhận thức: cả hai trường hợp đều không ảnh hưởng đến quán tính vận hành của hệ thống. Hệ thống ấy khó có thể bị sứt mẻ bởi một cộng đồng dân chúng mà tuyệt đại đa số đã được tẩy não bằng một huyền thoại lịch sử đã được nhào nặn kỹ càng và hoàn toàn khiếp nhược trước các biểu tượng răn đe.

Nếu có thể ví Đảng với một cơ thể sống, tôi mường tượng nó như một động vật cấp thấp, là loài rắn chẳng hạn. Mà động vật cấp thấp thì khó chết chỉ vì 1% cơ thể đang ung thối hay hoại tử, không phải bộ phận đầu não của nó.

Phạm Thị Hoài: Nếu hệ thống không bị ảnh hưởng đáng kể thì việc những đảng viên từng có nhiều cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, từng giữ những cương vị cao, nay công khai tuyên bố ra khỏi Đảng có thể có tác động gì?

La Thành: Sự chủ động ly khai Đảng của họ chắc chắn gây được tiếng vang. Không những thế, tôi còn tin rằng đó là nước đi tất yếu để họ tự bảo vệ các giá trị đã có của mình trong ván cờ với Đảng và với chính cuộc đời họ. Họ ít nhiều đã và đang xua đi màn sương khói huyền hoặc lâu nay bao quanh các đài hương bệ tượng uy nghi của Đảng, đã và đang góp phần làm xói lở nỗi sợ hãi mà Đảng đã ám thị dân chúng trong ba phần tư thế kỷ cai trị độc đoán của nó. Việc những người như nhà văn Nguyên Ngọc và nhà khoa học Chu Hảo vào Đảng, phục vụ Đảng và đóng góp cho uy quyền của Đảng trong quá khứ là một đáng tiếc. Tuy nhiên, bằng quyết định ly khai Đảng, họ đã chạm tay trở lại vào lương tri và tự do tư duy như những phạm trù đạo đức. Trong lịch sử tồn tại của mình, Đảng đã phạm không ít sai lầm. Quyết định kỷ luật Giáo sư Chu Hảo vừa qua từ Ủy ban Kiểm tra của Đảng là một trong những động thái minh chứng cho sự xơ cứng và u mê già nua của nó.

Phạm Thị Hoài: Nhưng Đảng vẫn đang được tiếp máu từ các thế hệ trẻ và bất chấp mọi tổn thất, dường như vẫn chưa phải lo thiếu đảng viên?

La Thành: Từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XII (2016), số đảng viên của ĐCSVN đã tăng từ 1,9 triệu lên 4,5 triệu. Trong vòng ba thập niên đó, dân số Việt Nam tăng từ 60 triệu lên 95 triệu, có nghĩa là tỷ lệ đảng viên trong dân cư đã tăng từ 3,1% lên 4,7%. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với sự gia tăng về uy tín chính trị của Đảng, mà chủ yếu xuất phát từ những lý do hình thức, chỉ đơn thuần phản ánh sự phình to của bộ máy quản lý ở tất cả các cấp của hệ thống chính trị. Dĩ nhiên, nó cũng phản ánh sự gia tăng nhu cầu vào Đảng, khi tấm thẻ đảng đảm bảo cho cơ hội thăng tiến trong hệ thống chính trị đó.

Phạm Thị Hoài: Nhu cầu muốn vào Đảng hay áp lực phải vào Đảng?

La Thành: Không có quy định thành văn rằng cán bộ từ cấp nào trở lên thì bắt buộc phải là đảng viên, song chế độ toàn trị và độc tài ý thức hệ do Đảng áp đặt và vận hành hơn nửa thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến công tác tổ chức của nó ngày càng thấm đẫm chủ nghĩa hình thức. Việc phân loại, tuyển chọn và đề bạt nhân sự của Đảng lâu nay đã trở nên máy móc, trọng hình thức hơn nội dung. Không phải các phẩm chất nhân văn, năng lực tư duy và kỹ năng hành động mà các loại “mác mỏ” như bằng cấp, học vị, danh hiệu hay tấm thẻ đảng trở thành mục tiêu tranh thủ giành giật của tất cả những người tìm kiếm cơ hội. Cách đây vài chục năm tôi còn thấy một cán bộ khoa học giữ vị trí lãnh đạo cao cấp mà không phải là đảng viên: Giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia – một cơ quan trực thuộc chính phủ ngang cấp bộ – kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, những chức vụ tương đương thứ trưởng và vụ trưởng. Bây giờ khó tìm được trưởng, phó một đơn vị cấp ba (cấp một là các bộ ngành của chính phủ, các ban ngành của Trung ương Đảng, các ủy ban nhân dân hoặc ban chấp hàng đảng bộ tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương) mà không phải là đảng viên. Sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang, tức từ quân hàm thượng tá trở lên, thì gần như bắt buộc phải là đảng viên trước khi được đề bạt.

Phạm Thị Hoài: Tôi nghe nói, vào Đảng bây giờ có khi cũng phải “chạy”, phải vào bằng cửa sau?

La Thành: Trên mọi nấc thang quyền lực, từ địa vị cán bộ hành chính hoặc đảng vụ cấp xã phường đến những vị trí lãnh đạo béo bở ở các công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước hay những chiếc ghế đầy uy quyền ở Ban Chấp hành Trung ương hoặc chính phủ, Đảng đang điều hành mọi công việc, trong đó có công tác phát triển Đảng, theo chủ nghĩa thân tín. Nhân sự có nhu cầu vào Đảng phải tiếp cận và chứng minh sự trung thành của mình với nhân sự lãnh đạo bằng mọi cách khả dĩ, từ những xách quà hay tấm phong bì tiền mặt thô thiển đến những thủ đoạn ủng hộ tinh vi hoặc kín đáo hơn như trợ giúp lãnh đạo kiếm chác lợi ích kinh tế/chính trị, tự nguyện trở thành các tiện ích sinh hoạt cho lãnh đạo như đối tác chơi thể thao, kẻ dẫn bạn tình hoặc làm luôn đối tác tình dục của lãnh đạo. Sự hé mở gần đây của truyền thông về những bộ máy quan chức ở địa phương gồm toàn thân tộc, hay về những hot girl trở thành cốt cán sau một đêm chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh toàn cảnh nhem nhuốc tởm lợm của hệ thống này.

Phạm Thị Hoài: So với thế hệ của bạn và thế hệ trước, đảng viên trẻ hiện nay thế nào?

La Thành: Có thể tạm chia họ thành hai nhóm. Nhóm thực dụng gồm những người vào Đảng cho có đủ “mác mỏ” để tiến thân. Họ ít nhiều có cảm xúc trước một số bất cập nghiêm trọng của chế độ hiện tại, song thường tránh tham gia các tranh luận về chủ đề chính trị, hoặc tham gia ở mức độ an toàn. Đây có lẽ là nhóm đông đảo nhất, mắc hội chứng doublethink khá nặng. Nhóm “hồng vệ binh” tập hợp những người thành kính và quyết liệt bảo vệ các biểu tượng giá trị của Đảng như Hồ Chí Minh, ý thức hệ Mác Lê, cuộc “kháng chiến chống Pháp” và chiến thắng Điện Biên Phủ, cuộc “kháng chiến chống Mỹ” và chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975, cùng những “sáng tạo tài tình” của Đảng như Đổi Mới, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vân vân. Nhóm này nói chung có sức khỏe tâm thần hạn chế, hầu hết mắc chứng tự kỷ ở mức độ khác nhau.

Phạm Thị Hoài: Và tất cả đều tham dự “sinh hoạt đảng”. Cụ thể đó là cái gì?

La Thành: Theo điều lệ ĐCSVN, đảng viên được tổ chức thành các phân bộ, gọi là đảng bộ, tương ứng với các đơn vị địa lý hành chính hoặc các đơn vị kinh tế-xã hội. Theo thông lệ hiện nay, ở cấp chi bộ sinh hoạt đảng định kỳ diễn ra mỗi tháng một lần. Nội dung là kiểm điểm công việc và hoạt động trong tháng, thường là công việc chuyên môn và hoạt động phong trào, nhắc lại hoặc định hướng kế hoạch công việc và hoạt động tháng tới. Ngoài ra có thể phổ biến nghị quyết của đảng ủy cấp trên hoặc nghị quyết của hội nghị Trung ương gần nhất, thường dưới hình thức đọc tài liệu in sẵn và yêu cầu đảng viên viết bản thu hoạch cá nhân sau khi đọc các văn kiện đó. Buổi sinh hoạt thường kết thúc bằng việc nghe đọc và biểu quyết thông qua một nghị quyết do một người trong ban chấp hành, thường là bí thư chi bộ / đảng bộ, chuẩn bị trước và được các đảng viên góp ý bổ sung trong buổi sinh hoạt. Diễn biến của mọi buổi sinh hoạt Đảng đều được ghi biên bản. Sổ sách ghi chép nghị quyết, biên bản họp, mẫu kiểm điểm cá nhân hiện nay đều được thiết kế, in ấn và phân phát đến từng chi bộ hoặc đảng viên.

Cuối tháng Sáu có họp sơ kết giữa năm và cuối tháng Mười Hai họp tổng kết cả năm. Trong các buổi sinh hoạt đặc biệt này, mỗi đảng viên phải viết bản tự kiểm điểm cá nhân, đọc trước toàn chi bộ rồi nghe các đảng viên khác nhận xét. Cuối buổi sinh hoạt tổng kết năm là tiết mục bình bầu các danh hiệu thi đua để cấp trên khen thưởng.

Phạm Thị Hoài: Thế đảng viên trau dồi chủ nghĩa Mác-Lê vào lúc nào?

La Thành: Các chuyên gia của Đảng lâu nay đã cho ra đời ba bộ giáo trình sơ cấp, trung cấp và cao cấp cho các môn Triết học Mác-Lênin, Kinh tế Chính trị Mác-LêninChủ nghĩa Cộng sản Khoa học. Chương trình sơ cấp dành cho các trường cao đẳng và đại học không thuộc lực lượng vũ trang hoặc Trung ương Đảng, chiếm 15% thời lượng đào tạo mỗi khóa học, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí trưởng/phó các đơn vị cấp ba và cấp hai bắt buộc phải có chứng chỉ đã qua chương trình trung cấp ở các khóa học tại các trường đảng cấp tỉnh/thành, trong khi học viên sĩ quan các trường đại học của quân đội và công an được thụ huấn chương trình này ngay trong quá trình đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí lãnh đạo cao cấp (trưởng/phó các cơ quan từ cấp một đến cấp trung ương), tướng lĩnh chỉ huy hoặc chính ủy các đơn vị cấp chiến dịch-chiến lược của lực lượng vũ trang phải có chứng chỉ đã qua chương trình cao cấp ở một khóa học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hoặc Học viện Quốc phòng.

Phạm Thị Hoài: Ảnh hưởng của Đảng ở thành phố và nông thôn có khác nhau nhiều không?

La Thành: Ở nông thôn, người dân nói chung đồng nhất Đảng với chính quyền về quan niệm. Điều này không có nghĩa ảnh hưởng của Đảng ở nông thôn là tích cực. Tệ nạn gia đình trị và tham nhũng, đặc biệt là tham nhũng đất đai và tham nhũng chính sách, của các đảng bộ và chính quyền địa phương trong nhiều năm qua đã gây nhiều bất bình và phản kháng trong dân chúng, điển hình là các sự kiện như Đoàn Văn Vươn 2012, Formosa 2016, Đồng Tâm-Mỹ Đức 2017, Bình Thuận 2018. Còn ở thành phố, ảnh hưởng của Đảng đa dạng hơn. Trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước, đảng tịch và sinh hoạt Đảng vẫn còn là những yếu tố điều kiện ảnh hưởng đến cơm áo và thăng tiến của một bộ phận cán bộ nhân viên, song cũng chỉ dừng ở các ảnh hưởng kinh tế. Dân đô thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, khinh nhờn Đảng hơn, song ý thức phản kháng lại yếu hơn so với dân nông thôn. Uy quyền chính trị của Đảng ở thành phố giống như các zombie, những thây ma hôi thối vẫn tiếp tục áp đặt luật chơi của nó lên cuộc sống hiện tại.

Phạm Thị Hoài: Trên những kênh phi chính thống như mạng xã hội, vỉa hè, công khai phê phán, giễu cợt và chửi Đảng hoặc các lãnh đạo Đảng dường như đã trở thành một môn thể thao toàn dân, thậm chí với sự tham gia của cả các đảng viên. Như vậy, có thể coi là xã hội Việt Nam đã cởi mở hơn nhiều so với vài thập niên trước không?

La Thành: Bớt phải thì thầm khi chê trách Đảng và lãnh đạo Đảng là một không khí cởi mở biểu kiến và thụ động, giống như khung cảnh bầy thỏ đang đi lại dạn dĩ và đỡ rón rén hơn trước mũi con sói đã già nua, chậm chạp và đầy bệnh tật. Tin tốt là mọi toan tính đảo ngược tình trạng hiện tại là không thể.

Phạm Thị Hoài: Đảng bất lực, hay tạm dung tình trạng đó vì tin chắc ở quyền lực của mình?

La Thành: Đảng chưa bao giờ biết đến dung thứ, một khi nó còn có thể hành xử bất dung. Chắc chắn là nó bất lực, và bất an. Các đảng viên cao cấp hiện đang sở hữu những bất động sản và tài khoản giá trị lớn ở nước ngoài. Nhưng ngay sau khi Khối Soviet sụp đổ, một ngân lượng cực lớn tài sản của Đảng, gồm hàng chục tỷ đô-la Mỹ, đã từng được di tản ra nước ngoài để chuẩn bị cho sự lưu vong của bộ máy trung ương của nó. Mới đây nhất, việc Luật An ninh Mạng cùng bộ nghị định để thực hiện nó được vội vã thông qua, siết chặt các quyền tự do tự nhiên và căn bản của nhân dân, đã cáo giác sự hoảng loạn của ban lãnh đạo ĐCSVN trước tiền đồ của chính nó. Toàn Đảng, đặc biệt là bộ phận trung ương của nó, đang ở trong trạng thái bất an tuyệt đối.

Phạm Thị Hoài: Nếu ĐCSVN đã suy yếu như vậy, bạn có tin vào một phong trào bỏ Đảng rầm rộ trong tương lai không xa?

La Thành: Chắc chắn là không. Đoạn tuyệt hay dứt khoát rũ bỏ di sản quá khứ không phải là năng lực tính cách điển hình của người Việt, càng không phải là của những người đã bước chân vào ngôi nhà của Đảng, cho dù di sản đó có tồi tệ và vô giá trị đến đâu, và ngay cả khi họ không còn một lợi ích gì đáng kể gắn liền với tấm thẻ Đảng. Để đoạn tuyệt với một di sản quá khứ tồi tệ, con người cần một năng lực tư duy tự do, óc phê phán và lương tri thuần khiết. Đây là những phẩm chất lý tính khá hiếm hoi trong đời sống tinh thần của người Việt, càng hiếm trong đời sống tinh thần của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Berlin, tháng 11/2018

(Báo Trẻ 8/11/201815/11/2018)